Tìm kiếm Blog này

Chiến Lược thời cuộc

Chiến Lược thời cuộc

Những bài viết chọn lọc: 
 
Việt Nam Vùng Địa Lý Chiến Lược!
Vân Anh
 Bài 1 (Audio)
Bài 2 (Audio)

Bài 3 (Audio)
 
Bài 4a (Audio)
 
Bài 4b (Audio)




Nguyên nhân Mỹ tham chiến tại Việt Nam
 Quốc Huy
Chấm dứt và thay thế chế độ thực dân cũ là Anh và Pháp. Vì 2 nước này có nhiều thuộc địa nhất trên thế giới. Xin đi xa hơn một chút để mọi người thấy rõ tình hình trên Thế Giới. Sau Đại Chiến thứ nhất, Đức thua trận nên phải bồi thường chiến phí cho những nước thắng trận, dân Đức rất phẫn nộ vì tinh thần dân tộc. Thế giới rơi vào thời kỳ Khủng Hoảng Kinh Tế (recession). Đức phát triển mạnh về kỹ thuật, dân Đức vẫn hậm hực vì phải bồi thường tiền chiến phí. Một đế quốc non trẻ nổi lên trên thế giới đó là Mỹ. Nhưng làm thế nào để có thể dành được những vùng trên thế giới đã thuộc về Anh và Pháp?. Chiến tranh. Người Mỹ không muốn ra mặt gây chiến và chịu đựng cuộc chiến vì sẽ tiêu hao nhân, vật lực, nguyên khí quốc gia. Họ cần những động lực để thúc đẩy sự bùng nổ của chiến tranh trên thế giới để làm thay đổi vị trí các nước cường quốc.

Sau cuộc nổi loạn của đám thủy thủ Nga thành công, Mỹ và Đức đã giúp cho Lênin từ Đức trốn về Nga để thành lập phong trào Bolsevich lật đổ Nga Hoàng (lúc đó, nước Đức và Nga đang có chiến tranh, thù ghét nhau). Khi Bôn Sê Vit (tiền thân của Cộng sản) thành công ở Nga thì Europe cũng khá lo vì cộng sản chủ trương (chiêu bài) giải phóng các thuộc địa, nhưng lúc đó thực dân cũ (Anh, Pháp) coi thường tiềm lực của Cộng sản. Lúc này Mỹ đã âm thầm tài trợ cho chủ nghĩa Phát Xít ở Đức phát triển. Chính các tỷ phú Mỹ (Rockerfeller ...) đã giúp tiền cho Hitler từ 1 anh thợ sơn leo lên lãnh đạo đảng Phát Xít và nắm chính quyền ở Đức.

Khi Phát Xít Đức thành hình thì Anh và Pháp muốn để Phát Xít chọi với Cộng sản vì vậy họ thản nhiên khi Đức xua quân chiếm Ba Lan, sau đó là Tiệp. Stalin tuyên bố ủng hộ Phát Xít Hitler. Anh và Pháp chờ để Hitler đánh Nga. Nhưng Hitler đã tấn công chiến lũy Magino và chiếm Pháp.


Ở Á Châu, Nga ủng hộ Tưởng Giới Thạch, Mỹ ủng hộ Mao và đã nhiều lần cứu Mao thoát chết, khi thì báo tin cho Mao biết quân của Tưởng sẽ tấn công, khi thì Mỹ ngăn cản Tưởng xua quân truy sát đoàn quân Vạn Lý Trường Chinh của Mao. Nhiều người đồng chí (đ/c) Cộng sản của Mao không tin là họ có thể sống sót trong cuộc chạy trốn, và họ càng không tin rằng Cộng sản có thể chiến thắng và chiếm trọn Trung Hoa. Như vậy Trung Cộng (TC) thành công chiếm được nước Tàu là nhờ Mỹ trợ giúp (thực tâm giúp thì khác hẳn với chuyện giúp Việt Nam Cộng Hòa).


Tại hội nghị Yalta , tổng thống Mỹ Eisenhower đã cùng Stalin, Churchill phân chia lại vị trí trên thế giới. Pháp, De Gaulle bị hất ra rìa, không được mời tham dự hội nghị này. Liên Xô trong đệ nhị thế chiến nhờ Mỹ lập cầu Không, Hải vận tiếp tế ngày đêm ... hàng đoàn tàu đạn, thực phẩm, vũ khí được chuyên chở tới Nga và phát tới tay Hồng quân, nhờ vậy mới có thể giữ chân nhiều quân đoàn của Phát Xít Đức ở mặt trận miền Đông, để Đồng Minh đổ bộ lên Normandie thành công mở đầu cho chiến dịch giải phóng Europe. Tuy nhiên sau chiến tranh, Liên Xô thiệt hại nặng nhất và cũng chết nhiều người nhất. Liên Xô lúc đó hoàn toàn kiệt quệ, nên nhớ Mỹ chỉ tham chiến vào cuối cuộc chiến nên nguyên khí của Mỹ vẫn còn nguyên. Nước Mỹ không hề bị bom đạn tàn phá, các tiềm năng kỹ nghệ vẫn còn nguyên, trái lại kinh tế Mỹ lại vô cùng phát triển vì sản xuất vũ khí cho chiến tranh và dân Mỹ đã nhờ cuộc chiến mà không có ai thất nghiệp.


Sau thế chiến thứ 2, Europe hoang tàn, kinh tế sụp đổ, thực dân Anh và Pháp trở thành đàn em của Mỹ. Mỹ trở nên một cường quốc số 1 trên thế giới về kinh tế cũng như quân sự. Mỹ cũng là nơi thu hút nhân tài, chất xám trên thế giới đổ về. Những nhà Bác học lớn của Đức như Von Braun, Einstein, ..v.v.. đều vào tay Mỹ. Sau đệ nhị thế chiến, Mỹ không nhân dịp này tấn công Liên Xô mà trái lại họ còn để cho Liên Xô bắt rất nhiều bác học Đức để “Liên Xô phát triển kỹ thuật” để Mỹ có kẻ đối đầu. Mỹ phát triển kinh tế với kế hoạch Marshall, nông dân, trại chủ Mỹ sản xuất chăn nuôi dư thừa, không thể nào tiêu thụ hết các nông phẩm, chính phủ (c/p) Mỹ phải trả tiền bù lỗ cho nông dân, vì không muốn bị phá giá nên c/p Mỹ đã đem bột mì, lúa mạch, ngũ cốc đổ ra biển, bò, cừu, dê bị bắn đem chôn. Lúc này tướng Marshall đề ra kế hoạch viện trợ cho Europe thực phẩm, những thứ phải đem đổ ra biển hay chôn, nay đem viện trợ cho dân Europe có nơi tiêu thụ, nông dân Mỹ tăng gia sản xuất, dĩ nhiên là khi Mỹ viện trợ cho Europe thì họ phải thu cái lợi khác, đó là nắm kinh tế và chính trị của Europe trong tay.


Tuy nhiên, chế độ thực dân cũ vẫn còn, các thuộc địa vẫn nằm trong tay Anh và Pháp. Lúc này con bài Cộng sản được xử dụng với phong trào giải phóng thuộc địa. Cộng sản Việt Nam (CSVN) nổi lên và nhờ vào TC cung cấp vũ khí, người CSVN đã có thể công khai đối đầu với thục dân Pháp. Tới đây, thì chúng ta thấy Mỹ tính thế cờ rất xa cả chục năm. Lúc đầu Quốc Huy, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao Mỹ nó lại giúp Mao, Lênin, Stalin trong khi tụi nó chủ trương diệt Cộng sản?. Cộng sản Việt Nam chắc chắn không thể nào đánh thắng Pháp nếu không có TC giúp người, vũ khí, và ngay cả chỉ huy các trận đánh cũng là các tướng của Tàu, Võ Nguyên Giáp chỉ đứng tên (việc này được bật mí khi TC đánh VN, Mỹ và Pháp không hề tiết lộ điều này).


Tướng Navarre của Pháp mở trận Điện Biên Phủ (ĐB) để ép Cộng sản lộ mặt đánh địa chiến với Pháp. Tướng Navarre đặt kế hoạch sẽ dụ Cộng sản vào khu lòng chảo Điện Biên Phủ và dùng máy bay thả bom tiêu diệt Việt Minh (tiền thân của vc). Mỹ hứa giúp Pháp về Không quân nhưng sau đó Mỹ lờ đi. Quân Pháp ở Điện Biên Phủ không có tiếp tế, không có máy bay oanh tạc, quân Việt Minh vây chặt quân Pháp đông như kiến, trong khi đó pháo của Trung Cộng ở trên các mỏm núi bắn xuống khu lòng chảo dữ dội. Navarre không muốn lính Pháp hy sinh vô ích nên ra lịnh đầu hàng Việt Minh. (tới đây, Quốc Huy tôi thấy lính Pháp đánh dở như hạch thế mà cả thế giới cứ ca tụng trận Điện Biên. Trận chiến An Lộc (Bình Long) còn tàn bạo hơn Điện Biên gấp chục lần, mỗi mét vuông của An Lộc phải chịu hơn 2000 quả đạn pháo đủ loại, nên nhớ là vũ khí thời An Lộc có sức tàn phá hơn thời Điện Biên gấp chục lần, quân Việt Nam Cộng Hòa trú phòng ở An Lộc hết lương thực, đạn, thuốc men, lại bị Cộng sản đánh bất ngờ (chứ không phải như Điện Biên, là Pháp đã có kế hoạch để dụ Việt Minh ra mặt), bên ngoài Việt Cộng vây chặt đông đen như kiến với 5 sư đoàn, mỗi ngày Việt Cộng mở hàng chục đợt tấn công cường tập. Nhiều nơi trên tuyến phòng thủ bị Cộng sản phá vỡ, xe tank T54 của Cộng sản và bộ binh tùng thiết đã nhiều lần tràn vào trong thị xã An Lộc, và nhiều lần ngụy quân Cộng sản chạy trên nóc hầm bộ chỉ huy quân trú phòng An Lộc. Tướng Lê Văn Hưng người hùng tử thủ An Lộc luôn giữ trong tay 1 trái lựu đạn M26 để nếu khi Cộng sản tràn vào thì ông sẽ rút chốt lựu đạn để cùng chết với chúng. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn cương quyết đánh tới chết không chịu đầu hàng mặc dù lương thực, đạn dược đã hết. Sau này, viên cố vấn Mỹ của đại tá Cẩn còn nhắc lại chuyện này và ông nói trong khi mắt rơm rớm lệ: “rất tiếc là không được ở lại cùng chiến đấu với đại tá Cẩn phút cuối cùng và để đại tá Cẩn bị Cộng sản giết ...”, tướng Lê Nguyên Vỹ thủ sẵn khẩu súng để nếu bị thua sẽ tự sát chứ không chịu đầu hàng Cộng sản. Các nhà quan sát, tướng lãnh quốc tế đều nói rằng: “An Lộc chỉ chịu đựng tối đa là 1 tháng là phải thua ...”, thế mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở An Lộc đã chịu hơn 3 tháng và Cộng sản đã thua.


Trận chiến An Lộc
Thế nhưng hầu như thế giới chẳng ai biết đến trận đánh này, Quảng Trị, Sa Huỳnh, Tống Lê Chân, Đức Huệ, Đỗ Xá, ... và nhiều trận đánh khác rất lớn vì mức độ tham dự lên cấp trung, sư đoàn. Mỹ chỉ nói về cuộc chiến đồi Hamburger (nhưng trận đánh này chính binh lính Việt Nam Cộng Hòa là đoàn quân đầu tiên lên ngọn đồi Hamburger chứ không phải lính Mỹ), hoặc Platoon (1 trận đánh tưởng tượng nhưng được phù thủy truyền thông Do Thái ở Mỹ thổi phồng) và mới đây là: “We are Soldier” do Mel gibson thủ vai chính, đây là một trận có thật. Nhưng so với lực lượng Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động quân của Việt Nam Cộng Hòa, lính Mỹ vẫn còn thua xa, bởi vì lính Mỹ nhiều anh GI lớ ngớ và nghe súng nổ thì co rúm lại sợ hãi, chưa kể là lính Mỹ đánh ở đâu thì được Pháo binh, Không quân Mỹ yểm trợ tối đa, hoả lực của Mỹ cũng mạnh hơn quân Việt Nam Cộng Hòa gấp 3 lần. Phim “Metal Jacket” thì hư cấu nhiều đoạn cốt bôi nhọ quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong trận Mậu Thân đâu phải chỉ có Thủy quân Lục chiến Mỹ đánh với Cộng sản (VC), điều này ở Việt Nam ai cũng biết, chỉ có thế giới là không biết và đã bị lừa).

Trở lại thời Pháp, sau khi Pháp thua và rời Việt Nam, thì chế độ thực dân cũ cũng tiêu tan, các thuộc địa của Pháp đều tan rã (Algérie, Tunisie, Maroc, Martinique, Bắc Phi, Congo, Haiti ..v.v.. đều độc lập), Anh cũng trao trả độc lập cho các thuộc địa và lập ra Liên Hiệp Anh và Common Wealth. Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam và nhờ Việt Nam Mỹ đã chấm dứt hệ thống thực dân cũ.


Sau đó cả thế giới đều sợ nạn Cộng sản xâm lăng nên đều bám vào Mỹ nhờ che chở. Mỹ nhận lời bảo vệ thì phải có lợi cho Mỹ chứ? Đúng vậy, Mỹ đã thao túng các nước trên thế giới về chính trị, kinh tế và cả văn hoá Mỹ cũng tràn lan khắp nơi. Nên biết, trước năm 1950, và ngay cả đến bây giờ nhiều người Mỹ vẫn cho rằng Paris là nơi văn vật, cái gì của Paris đều được cho là sang trọng, Chic, Elegant nhất là văn hoá, nghệ thuật, thời trang, mỹ phẩm ai sành xài đồ có mark thì biết điều này. Thời đó người ta đã gọi Paris là kinh đô của ánh sáng, các văn nhân, nghệ sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia trên thế giới muốn nổi tiếng thì phải quy tụ ở Paris. Chúng ta thấy điều đó đúng vì các nhà danh hoạ như Van gogh, Monet, Manet, Pissaro, Degas, Picasso, Delaunay, Kadinsky, Chagal, Suzuki, rồi Hemingway, Fritzerald, Georghiu, Pastenak đều tới Paris . Mỹ lúc đó bị coi khinh là anh nhà quê. Nhưng kể từ sau đệ nhị thế chiến, nếu muốn nổi tiếng, thành công thì phải tới New York city, New York city cũng là nơi trung tâm, đầu não của nền kinh tế, tài chánh của nước Mỹ. Người Do Thái là ông vua không ngai ở New York city. Các sắc dân khác đều phải quy phục người Do Thái ở đây.

Nhờ chiến tranh Việt Nam, Liên Xô chạy đua vũ trang với Mỹ, nên Mỹ đã sản xuất và bán được nhiều vũ khí cho các nước sợ Cộng sản xâm chiếm. Các tài nguyên, mỏ quặng của các nước trên thế giới Mỹ cai thầu luôn, mấy anh European bị dẹp ra rìa. Nhờ chiến tranh Việt Nam kinh tế khu vực các nước ở Á Châu phát triển, mà vốn của Mỹ nắm phần lớn ở đó, vì vậy Mỹ đâu có muốn dẹp tụi Cộng sản nên chiến tranh mới kéo dài 30 năm, Mỹ chơi cái trò mèo vờn chuột. Nếu so sánh chiến tranh Việt Nam với Đệ nhị thế chiến khi Mỹ đánh với Đức thì thấy khác nhiều lắm. Mỹ đâu có chơi cái trò vừa đánh vừa “giỡn” như đã làm với Cộng sản Hà Nội, nói giỡn cũng đúng lắm. Bởi vì máy bay Mỹ được lịnh không ném bom những xe chuyên chở của Cộng sản Bắc Việt trên đưòng mòn hồ chí minh, nếu những xe này đậu ở lề đưòng máy bay Mỹ không được phép tấn công, những dàn tên lửa của Nga chế tạo viện trợ cho Bắc Việt nếu không thấy có dấu hiệu nguy hiểm, có nghĩa là không chỉa lên trời nhắm vào máy bay Mỹ. Cứ coi Mỹ đánh Iraq chỉ trong vòng có 1 tháng là xong?. Cộng sản kéo dài 30 năm, phi lý. Vì vậy khi Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam cho Cộng sản thì cả thế giới chưng hửng, vì từ trước tới nay Mỹ đâu có bao giờ thua. Không đúng. Mỹ đã thua Cuba trước đó. Và cho tới nay Cuba cứ nghèo và bị cấm vận và cũng chính Mỹ “chuyên” mua đường dùm Cuba, để Cuba có phương tiện để thở, ngáp ngáp nhưng chưa chết và lâu lâu đem hỏa tiễn của Liên Xô ra dọa bắn qua Mỹ làm dân Mỹ teo dái và khi chính quyền Mỹ tăng ngân sách quốc phòng, thì dân Mỹ im ru không dám biểu tình, thế là các tài phiệt Mỹ hốt bạc.


Mỹ cũng không cho phép đánh ra ngoài Bắc để giải quyết gọn Cộng sản Bắc Việt. Có người nêu ra nguyên do: “vì Mỹ sợ Trung Cộng tham chiến nếu Mỹ cùng Việt Nam Cộng Hòa tấn công chiếm miền Bắc. Điều này không đúng. Vì sao mà không đúng?. Chúng ta lấy cái ví dụ Iraq thì thấy, Mỹ nó có coi Trung Cộng, Liên Xô, Đức, Pháp ra cái quái gì. Saddam Hussein tính đánh Do thái bị Mỹ cấm vận nên chỉ chơi với Trung Cộng, Liên Xô, Đức, Pháp. Saddam bán dầu hoả cho 4 nước này đổi lại vũ khí, lương thực. Đáng lẽ ra thì Saddam cũng chưa đến nỗi chết nhưng chỉ vì Saddam tính đánh Do Thái nên Do Thái ra lịnh cho Mỹ chiếm Iraq, chính thủ tướng Sharon công khai nói điều này trên truyền hình và được truyền đi khắp các đài ở Âu Mỹ, mà tại sao Mỹ lại phải nghe lịnh Do Thái?. Bởi vì Do Thái là chủ các nhà bank, thị trường chứng khoán, chủ nhân các công ty, các nhà sản suất phim, chủ các tòa báo ở Mỹ, tài chánh kinh tế của Mỹ ... Do Thái nắm trong tay, vì vậy Mỹ phải “tuân lời” Do Thái.


Theo tin của báo Pháp (Le Monde) thì lúc đó Đức đã viện trợ cho Iraq loại súng đại bác có thể bắn từ Iraq tới Israel . Đức còn viện trợ cả vũ khí hóa học cho Iraq nữa. Do Thái biết được điều này thì sợ lắm, bởi vì vũ khí hóa học có thể giết cả chục ngàn người như chơi với 1 đầu đạn có chất độc. Ngoài ra, Đức còn xây cho Iraq những hầm trú ẩn, lô cốt rất kiên cố có thể chống cả bom khinh khí, nguyên tử nữa. Liên Xô thì bán cho Iraq loại Mig tối tân nhất, và cả hỏa tiễn đầu đạn nguyên tử, cùng tank mới nhất. Pháp thì bán cho Iraq những chiếc máy bay Mirage loại mới nhất, và một số các thiết bị quân sự, liên lạc, radar tối tân nhất của Pháp. Trung Cộng thì cung cấp các loại vũ khí cộng đồng, xây dựng đường xá ..v.v..


Khi Mỹ đánh Iraq, thì Trung Cộng, Liên Xô, Pháp, Đức đều phản đối vô cùng dữ dội, bởi vì các nước này đã bán chịu hàng hoá, vũ khí cho Saddam Hussein mỗi nước mấy chục tỷ dollars mỹ. Bốn (4) cường quốc này biết nếu Saddam Hussein có mệnh hệ gì thì mấy chục tỷ dollars cho nợ sẽ tiêu tan thành mây khói, vì vậy Chirac, Putin, thủ tướng Đức, và cả Hồ Cẩm Đào đều to tiếng phản đối Mỹ đánh Iraq, thế mà thằng Mỹ nó coi 4 ông ra cái gì? Mỹ ngụy tạo ra bằng chứng “mass destruction weapon” (võ khí giết người hàng loạt) cho Iraq và mới đây Mỹ đã phải xin lỗi. Rồi Mỹ còn gán cho Saddam dính líu tới Al Quada, bây giờ lòi ra cũng không phải vậy, thì Mỹ lấy lý do gì đánh chiếm Iraq ? Vì chủ Do Thái chứ còn cái gì nữa. (hãy suy nghĩ, suy tư một chút đừng để tụi truyền thông nó cứ xỏ mũi mãi như vậy, nó dắt mình đi đâu thì chẳng lẽ mình cứ đi theo mãi sao?) Mỹ cứ đánh, nó cứ bỏ bom, rồi nó chiếm Iraq, nó bắt được Saddam Hussein, nó chiếm các mỏ dầu rồi nó lôi Saddam ra xử tử, bốn (4) ông cường quốc chỉ dám đánh võ miệng được vài tháng cho đỡ ức sau đó các ông Pháp, Đức, đành làm hòa với mỹ, rồi cả Europe đưa quân mò tới Iraq đóng quân giúp Mỹ. Thế giới đã quên chuyện cũ, dòng đời vẫn tiếp tục.


Thế thì chúng ta thấy cái luận điệu trên “Mỹ nó sợ Trung Cộng” láo quá phải không nào?. Nhất là thời gian đó, Trung Cộng còn nghèo, khoa học, kỹ thuật, quân sự lạc hậu lắm chứ đâu được tân tiến như bây giờ, nói là tân tiến chứ so sánh với vũ khí của Mỹ hiện nay thì theo các nhà chuyên viên quân sự ước tính “Trung Cộng muốn được bằng Mỹ hiện nay thì ít nhất phải mất 25 năm 'hiện đại hoá quân đội' ... (sic)”. Cứ thử làm bài toán, Trung Cộng tiến thì Mỹ cũng phải tiến chứ, trong 25 năm đó thằng Mỹ nó đâu có ngồi chờ Trung Cộng “hiện đại hóa quân sự” để bằng nó như một số người Việt Nam ta tin vào mấy thằng tay sai Việt Gian Cộng sản Hà Nội dụ “chúng ta đừng làm gì cả, tranh đấu chi cho mệt, cứ ngồi chờ Cộng sản tự nó xụp đổ, bất chiến tự nhiên thành mà”.


Mỹ nó đâu có sợ Trung Cộng, chính nó giúp Mao, giúp Cộng sản chiếm Trung Hoa kia mà, nhờ vậy Cộng sản Hà Nội mới có chỗ dựa để đánh nhau với Pháp chứ, và cũng chính thằng Mỹ đã đưa các tài liệu chế bom nguyên tử cho Trung Cộng sau khi biết Liên Xô không chịu giúp Trung Cộng chế bom nguyên tử. Mao vì cớ này mà giận Liên Xô đó. Mỹ đã cho mời một giáo sư đại học về nguyên tử của Trung Hoa tới Trung Tâm Nguyên Tử Lực lớn nhất của Mỹ làm việc, và Mỹ đã “vô tình” để cho ông giáo sư Tàu này “chôm” tài liệu chế bom nguyên tử trốn về Tàu trót lọt, qua cổng phi trường mà không hề bị khám xét, FBI, an ninh, mật vụ ở đâu sao không theo dõi sát ông Gs Tàu này, mà để cho ông ta phom phom chạy về Tàu dễ dàng như vậy?. Sau đó một thời gian Mỹ mới “chợt nhớ tới” ông Gs Tàu này, thì lúc đó mới biết ông ta đã trốn về Tàu cùng với công thức chế bom nguyên tử (đóng kịch dỡ quá há, scenario thuộc loại hạng F), lúc đó Mỹ mới hô hoán lên là ông Gs tàu làm gián điệp đã ăn cắp tài liệu “tối mật để làm bom nguyên tử” (sic), thì đã quá trễ, bởi vì Trung Cộng đã biết cách chế bom nguyên tử rồi và có lẽ cũng đã thử tới quả bom thứ hai.


Khi Nixon cùng đoàn bóng bàn qua Bắc Kinh giao đấu hữu nghị, Nixon và Mao bắt tay nhau, thì nhiều người Việt Nam đã biết thằng Mỹ sẽ chơi đểu Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ nhắm vào cái thị trường tiêu thụ hơn 1 tỷ người của Trung Cộng và đã thành công. Qua cầu thì rút ván, công tác đã hoàn thành, ông chủ Do Thái đã ra lịnh Mỹ bỏ Việt Nam để tập trung vào Trung Đông giúp Israel (Do Thái) đối phó với khối Ả Rập, Ai Cập. Kissinger thi hành ý của Do Thái đi đêm với Bắc Kinh, Cộng sản Hà Nội bức tử Việt Nam Cộng Hòa trong hội nghị Paris 1972. Mỹ tuân lịnh Do Thái rút khỏi Việt Nam . Mỹ ngưng viện trợ để bức tử Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản Hà Nội chiếm miền Nam Việt Nam chấm dứt chiến tranh, nhưng lại mở đầu cho thời đại nô lệ dân tộc Việt. Mỹ bỏ miền Nam Việt Nam đâu có lỗ gì?. Sau khi Mỹ bỏ Nam Việt Nam , thì các nước trên thế giới bám vào Mỹ để xin Mỹ bảo vệ khỏi bị họa Cộng sản xâm lăng. Các đơn đặt hàng vũ khí của Mỹ tăng vô kể. Ngân sách quốc phòng tăng không ai dám phê bình. Uy tín Mỹ trên thế giới lại tăng. Để cho người dân Mỹ bớt uất ức vì mang tiếng thua trận (chỉ là cái tiếng thôi chứ sự thực nó không phải như vậy). Mỹ cho ra phim Rambo cho dân Mỹ coi đỡ tức. Đồng thời, Do Thái, Mỹ sợ thế giới khám phá ra cái trò chơi bẩn, phản bội Việt Nam Cộng Hòa nên đã bỏ tiền ra thuê mướn các nhà báo, văn sĩ, cựu chính trị gia, viên chức, một số trí thức viết sách, báo, làm phim bôi nhọ, đổ tội bất tài, vô khả năng lên đầu quân lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ để che dấu sự thực, cả thế giới đã bị phù thủy Do Thái, Mỹ dùng truyền thông lừa bịp. Chẳng khác gì trước đây Mỹ đã từng làm phim về người Da Đỏ là tàn ác, hiếu chiến chuyên tấn công cướp bóc người da trắng để che dấu cái tội ác diệt chủng, cướp đất người Da Đỏ, nhưng đã có những người Mỹ, European chính trực, can đảm đã dám đứng ra làm phim, viết sách nói lên sự thực về người Da Đỏ ở Mỹ.


Mỹ nuôi dưỡng Cộng sản để Cộng sản Liên Xô, Tàu chạy đua vũ trang cho kinh tế Mỹ phát triển. Không có mấy thằng gian ác, bad guys, côn đồ cộng sản cầm dao, súng đứng ở các ngõ hẻm rình rập hay xông vào nhà ăn cướp thì đâu có ai nhịn ăn, học, thuốc men mà đi mua vũ khí, phải không?. Cuối cùng, khi Gorbachev một tay trí thức, Gs đại học, lên làm tổng bí thư cộng sản Liên Xô, khám phá ra ngân khố và kinh tế Liên Xô đang trên bờ vực thẳm vì đã cạn kiệt, nếu cứ tiếp tục chạy đua vũ trang với Mỹ chẳng chóng thì chày sẽ xụp đổ, vì vậy ông ta mới quyết định “đổi mới” để củng cố lại hệ thống, không ngờ bị đám Yeltsin nhảy ra làm “Cách Mạng”, thế là cộng sản Liên Xô đi bán muối kéo theo khối Varsovie. Cộng sản Hà Nội mất chỗ dựa Liên Xô đành phải về xin bái Trung Cộng làm thầy để tiếp tục vơ vét, ăn cướp, bóc lột dân nô lệ Việt Nam.


Thấy mỹ đầu tư làm ăn nhiều ở Tàu, Việt Gian Cộng sản cũng mon men muối mặt quỳ lạy để năn nỉ xin Mỹ bang giao, xin Mỹ bãi bỏ cấm vận. Từ đó Việt Gian Cộng sản trở thành một tên tay sai của nước ngoài chuyên đàn áp, bóc lột, bắt dân Việt Nam làm nô lệ, các mỏ dầu ở ngoài biển Đông tốt nhất, có trữ lượng dầu lớn nhất Mỹ khai thác, Việt Gian Cộng sản dễ bảo vì chúng là quân ăn cướp, buôn dân, bán nước, chúng chỉ biết tổ quốc của chúng là Liên Xô, Trung Cộng, đảng Cộng sản Việt Gian. Ngoại bang cho chúng một ít tiền bảo gì chúng cũng làm, công nhân thời Việt Nam Cộng Hòa còn đình công đòi quyền này quyền kia, Nghiệp Đoàn thời Việt Nam Cộng Hòa còn đòi chủ Mỹ phải xin lỗi nếu nhục mạ công nhân, bắt chủ phải thu hồi công nhân nếu bị đuổi vô cớ, bị tai nạn lao động thì bắt chủ phải bồi thường, chu cấp cho gia đình nạn nhân.


Thời Việt Gian Cộng sản bọn chủ nhân nó là ông Trời, chúng nọc công nhân ra đánh, lột trần truồng nữ công nhân ra khám xét trước khi tan sở, bắt làm việc nhiều hơn 8 tiếng/ngày, không được hưởng lương phụ cấp con cái, không tiền bồi thường tai nạn lao động, chủ muốn đuổi lúc nào thì đuổi, con gái Việt Nam đứng xếp hàng không quần áo để tụi ngoại quốc nó mua về làm “vợ” như mua con vật, nô lệ Việt Nam “xuất khẩu ra ngoài” bị hành hạ, bóc lột, bị chết cũng chẳng sao. Nông dân thời Việt Nam Cộng Hòa thì được chia ruộng đất trong chương trình “Người Cày Có Ruộng”, thời gian đó về miền Tây gia đình nào cũng sống sung túc, con cái học hành đàng hoàng, lễ phép. Chỉ bị cái nạn Việt Cộng đánh phá, nếu không thì là cảnh miền quê trù phú, hạnh phúc. Ngày nay đa số nạn nhân cho những ổ điếm con nít, vợ Đài Loan, Đại Hàn là người miền Tây nam bộ. Miếng đất nào ông chủ nước ngoài muốn thì bảo thằng cai thầu nô lệ Việt Gian Cộng sản một tiếng thì nó sẽ cho công an, bộ đội hốt hết tụi dân nô lệ Việt Nam đi chỗ khác, để đất cho ông chủ mở sân đánh golf, sòng bài, du hí, đú đỡn. Có ai để ý thấy rằng những người con gái bị làm nô lệ tình dục cho ngoại bang là người miền Nam, con nít bị đi làm điếm ở Cao Miên, Thái, Mã Lai cũng là người miền Nam, những nô lệ xuất khẩu bị rơi vào những chỗ khổ, tồi tệ nhất, cũng là người miền Nam. Thời Việt Nam thì đâu có thể làm như vậy được. Tội ác của Cộng sản Hà Nội trong thời chiến đối với dân tộc Việt Nam và trong thời gian chúng cai trị ở miền Bắc. Bằng chứng dâng đất biển cho Trung Cộng, giấy bán còn rành rành ra đó không thể nào chối cãi, thế mà vẫn có những tên bưng bô, xách dép cho Việt Gian Cộng sản vẫn có thể nguỵ biện cho việc này. Vô liêm sỉ, chỉ có thời Việt Gian Cộng sản mới có những kẻ vô liêm sỉ như vậy. Nước Việt hiện nay có độc lập không?. Câu hỏi để mọi người tự trả lời.


Đối với Mỹ, với người nước ngoài thì bọn Việt Gian Cộng sản quàng vai, quàng cổ chụp hình thân thiết, trong khi đó đối với người dân, cán bộ, binh lính, sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa (kể cả bộ đội thương binh của chúng) thì chúng hành hạ, sỉ nhục, phân biệt, kỳ thị. Ngay cả những nấm mộ của những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống, Việt Gian Cộng sản cũng đâu bỏ qua, chúng rào lại cấm người thăm viếng, có phải là hình thức cầm tù người chết như trước đây mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt bị xiềng xích?. Sau đó chúng lại làm tiền bằng cách đòi dời những nấm mộ này đi. Cộng sản Hà Nội cứ nói người Việt nam Cộng Hòa thù dai. Nhưng hãy coi hành động của chúng mỗi năm ăn mừng ngày 30/4, kỳ thị người miền Nam, chế độ cũ, như vậy hòa hợp hòa giải ở đâu?. Ai là người nuôi dưỡng hận thù?. Người Việt ở hải ngoại chỉ nói lên sự thực, còn Việt Gian Cộng sản thì hành động đày ải con người. Tư bản đỏ cộng sản Hà Nội càng lúc càng nhiều tiền là do ăn cướp, bóc lột người nô lệ Việt Nam chúng mới thành giàu có. Thực sự thù hận là ai chắc mọi người đã rõ.


Tuy nói Cộng sản chống Mỹ nhưng ngày nay văn hóa, lối sống Mỹ nó tràn ngập ở Việt Nam, với quyết tâm đào tạo con người xã hội chủ nghĩa, bọn Việt Gian Cộng sản đã đào tận gốc trốc tận rễ những truyền thống văn hoá Việt Nam, để ngày nay ở Việt Nam có những việc như thanh niên chuyên hiếp dâm bà già, ông già chuyên hiếp dâm con nít, thày giáo ngoài giờ đi dạy thì đi làm ăn cướp, hoặc quấy nhiễu tình dục nữ sinh nếu không được sẽ đánh rớt nạn nhân, thi cử thì toàn là bịp bợm, bằng giả, bằng mua, thuê. Công an đi trấn lột, hiếp dâm dân, cán bộ cộng sản tham nhũng, thụt két, bộ đội, công an công khai tổ chức những đường dây ăn cắp, buôn lậu. Ăn cắp, ăn cướp, hối lộ, tham nhũng, thụt két, nói láo, lừa bịp là điều phải có trong xã hội chủ nghĩa của Cộng sản. Đó có phải là đạo đức của Cộng sản?. Dĩ nhiên ở những nước khác trên thế giới cũng có những tệ trạng này, nhưng thủ phạm đã bị trừng phạt hay phải nghỉ việc, và lại càng không phải chính sách (quốc sách) của chính quyền. Không như ở Việt Nam hiện nay, cán bộ đảng viên cộng sản phạm tội vẫn nhởn nhơ tiếp tục nắm quyền, vẫn tiếp tục phạm tội. Họ đứng trên luật pháp bởi vì họ đẻ ra luật pháp?. Thằng ăn cướp nắm quyền không thể xử chính chúng được, vì vậy các thủ phạm tham nhũng, ăn cướp cứ ngồi vững trên ngai vàng và tiếp tục ăn cướp.


Nói tóm lại thời Việt Gian Cộng sản thì chỉ có dân tộc Việt Nam khổ vì làm thân nô lệ, còn tụi ngoại quốc thì chúng nó tới Việt Nam oai vệ hơn thời Thực Dân, nó thí cho Cộng sản chút tiền, thì Việt Gian Cộng sản ngoan ngoãn làm tay sai cho chúng đàn áp, bóc lột người dân. Cộng sản Hà Nội đã làm rất tốt công việc của thằng tay sai cho ngoại bang, cai nô lệ bản xứ. Đâu phải các ông chủ Nhật, Đài Loan, Hongkong, Đại Hàn, Mỹ, Pháp tới Việt Nam làm ăn vì thương người Việt Nam. Họ tới đó vì lợi nhuận đấy, mà có lợi cho họ thì người dân Việt Nam phải chịu thiệt, điều đó ai cũng biết. Một nước được đánh giá có tiềm năng kinh tế hay giàu có thì phải coi tiềm năng kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá, cấu trúc hạ tầng, chỉ số GDP hàng năm, chứ không phải là những hotel, sân golf hay những khu du lịch, xòng bạc casino. Tới đây chắc mọi người cũng đã hiểu phần nào tại sao Mỹ nó bỏ miền Nam rồi chứ?.
 
Cho đến ngày nay, Do Thái, Mỹ, Cộng sản Hà Nội vẫn bỏ tiền ra cho truyền thông báo chí ngoại quốc (nhất là báo chí Mỹ) thuê người viết sách làm phim đánh bóng Việt Gian Cộng sản, cũng như thoá mạ, bôi nhọ, nguỵ tạo sự thật về quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta thấy rõ trong những film Mỹ nói về chiến tranh Việt Nam có bao giờ có người lính Việt Nam Cộng Hòa trong đó. Trong khi đó thì hơn 200,000 người lính Việt Nam Cộng Hòa tử trận và hơn 1 triệu người bị thương tật. Nếu chiến tranh Việt Nam chỉ có Mỹ đánh với Cộng sản Hà Nội, thì Mỹ phải tới Việt Nam bao nhiêu người mới đủ để phụ trách các nơi?. Đấy! chỉ là sự lừa bịp trên truyền thông. Chúng ta đừng để bị Mỹ, Do thái, Việt Gian Cộng sản lừa bịp suốt đời nhé. Người Việt Nam bây giờ và các thế hệ sau này cũng sẽ phỉ nhổ lên hành động dơ bẩn này, nếu các Ác Thế Lực không biết dừng lại mà vẫn tiếp tục gieo thêm tội ác lên trên con người Việt Nam cũng như chà đạp nỗi thống khổ của con người Việt Nam và gây thêm tội ác trên đất nước Việt Nam. Chúng ta phải bằng mọi cách phải lưu truyền lại sự thực này cho đời sau biết rõ, dù chỉ là truyền miệng.

***



 
***

Âm mưu phong thủy Tầu -
Không Thể Không Nói... 
KTS Trần Thanh Vân

TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”
– “Cái gì? 55 năm?”
– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.
Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
Sự thật và trải nghiệm
Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953
Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.
Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.
Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.
Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt
Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.
Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.
Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.
Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.
Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?
Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

Du học ở Trung Cộng
Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.
Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.
Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.
Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.
Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.
Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”
Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.
Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.

Thời kỳ đã trưởng thành
Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.
Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.
Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.
Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.
Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

Trung Quốc hôm nay?
Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.
Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.
Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.
Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
Đông dân là một sức mạnh
Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,
Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán
Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
KTS Trần Thanh Vân


Bản Chất Quan hệ VN - Tầu Cộng - Nga Xô

Người ta nói rằng để cho quan hệ hai nước bình thường, VN đã phải chịu nhượng bộ một số cơ bản với Trung Quốc. Những nhượng bộ đó là gì và vì sao VN lại chịu chấp nhận những nhượng bộ đó vào thời điểm đầu những năm 90?

NB VIỆT THƯỜNG:
- Về câu hỏi này thì tôi xin được trình bày: Không phải tận năm 90 mới có một số nhượng bộ cơ bản mà tôi đã trình bày. Ngay từ những năm 1951, khi mà tập đoàn việt gian cộng sản xuất hiện trở lại với danh xưng mới là đảng Lao Động Việt Nam. Trong điều lệ đảng của chúng (từ khóa 2 năm 1951, vì cần thiềt phải dựa vào sự trợ giúp của Trung cộng, nên Hồ cho ghi như sau:
“Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx, Engels, Lenin, Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam.” (Văn kiện đảng (việt gian cộng sản) toàn tập – tập 12 – trang 444)

Nhưng Hồ vẫn cho thòng thêm một câu (vì hắn là con đẻ của Nga-xô) mà chúng ta cần lưu ý như sau:

“Đảng Lao Động Việt Nam nhận định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên xô lãnh đạo.” (sách đã dẫn – trang 445)

và về đảng viên, Hồ cho ghi như sau:

“… đ) luôn luôn cố gắng nâng cao trình độc chính trị, trau dồi tư tưởng của mình bằng cách học tập chủ nghĩa Marx, Engels, Lenin, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông” (sách đã dẫn – trang 447).

Chúng đã khẳng định lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm nền tảng cho mọi hành động, mọi đường lối chính sách của chúng. Cái đó là sự nhượng bộ quan trọng nhất rồi. Bởi đó là tính cách toàn diện trong sự nhượng bộ. Tức là bất kể cái gì cũng phải theo tư tưởng của Mao Trạch Đông. Đấy là điều chúng ta phải lưu ý. Điều thứ hai là cũng ngay sau đó thì chúng ta cũng biết rằng Trung Cộng và tiếp theo là Nga xô là hai nước đầu tiên công nhận tính hợp pháp của tập đoàn việt gian cộng sản và lập đại-sứ với chúng. La Quý Ba được cử làm đại-sứ đầu tiên và đồng thời cũng là cố vấn chính trị. Nhưng thật sự hắn là thái thú của Tàu cộng bành trướng bên cạnh tập đoàn Việt gian cộng sản. Hay nói cho đúng hơn thì La Qúy Ba là phó toàn quyền cũng được, còn toàn quyền là tên Lavritchev, giữ chức đại-sứ đầu tiên của Nga xô, bên cạnh tập đoàn việt gian cộng sản.

Cả hai tên này đã có thành tích chỉ đạo tập đoàn việt gian cộng sản hoàn thành sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, cho nên khi về nước thì La Quý Ba được tiến cử là thứ trưởng bộ ngoại giao của Tàu cộng, còn Lavritchev cũng được đưa lên chức thứ trưởng ngoại giao Nga xô.

Như chúng tôi đã trình bày thì kể từ đó (1951), trong mọi lãnh vực chứ không phải chỉ là về đất đai sông biển, mà mọi hoạt động xã hội của VN (vùng do việt gian cộng sản tạm quản lý) thì mọi hoạt động cả vật chất lẫn tinh thần, từ tôn giáo cho đến giáo dục cho đến truyền thống dân tộc, truyền thống lịch sử, đều bị xóa bỏ để thay thế bằng những gì mà Tàu cộng và Nga xô chỉ đạo. Kể từ đó mọi hoạt động của cái gọi là chính phủ Việt Nam, với một số trí thức, đảng phái không cộng sản đã bị đàn áp, trở thành bù nhìn thì vẫn làm ra vẻ giương cao ngọn cờ chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc như cuối năm 1946 trở đi, thì thực tế đã biến thành mọi hoạt động chính trị quân sự chỉ có mục đích duy nhất là mở rộng thuộc địa đỏ cho Nga xô và Tàu cộng bằng xương máu của nhân dân Việt Nam. Cho nên ngay từ bấy giờ cái gọi là chính phủ Hồ chí Minh thực sự là công cụ của các mẫu quốc Nga xô và Tàu cộng, có nghĩa đó là một chính phủ việt gian. Kề từ đó cuộc chiến tranh thực tế là chiến tranh giành thuộc địa của Nga xô, Tàu cộng. Mục tiêu độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho VIệt Nam là hoàn toàn không còn nữa, kể từ lúc lực lượng quân sự, khởi đầu là sự hợp nhất các lực lượng quân đội của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Cách, Việt Minh và của cả chính phủ Trần Trọng Kim, cộng với thanh niên Việt Nam xung phong ra nhập lực lượng quân sự theo lời kêu gọi của chính phủ kháng chiến chống Pháp (đa Đảng), từ cái tên Quân đội Quốc gia bị đổi tên thành quân đội nhân dân hay bộ đội cụ Hồ; và từ cái tôn chỉ “trung với nước, hiếu với dân” bị đổi thành “trung với đảng, hiếu với dân”. Như thế có nghĩa cái lực lượng đó chiến đấu không phải vì quốc gia dân tộc mà vì yêu cầu chính trị của đảng việt gian cộng sản. Cái mục tiêu chính trị đó là mục tiêu “thế giới đại đồng”. Có nghĩa là cái thế giới đó là của Nga xô, Tàu cộng và các thuộc địa và nô lệ đỏ.

Vế vấn đề này những ngòi bút phương Tây chỉ viết theo quan điểm chính trị của đảng phái họ, quyền lợi nước họ, cũng như cần phải thấy rằng có khi chính họ không nhìn ra vấn đề này vì họ chỉ là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa, khả năng hạn chế, yếu kém đạo đức và lương tâm của người cầm bút. Nhưng vì họ có điều kiện quảng bá những sản phẩm của họ và được sự hỗ trợ của các thế lực chính trị hoặc tài phiệt sau lưng. Còn chúng ta, những người Việt Nam đa số hay còn mắc bệnh tôn sùng nước ngoài và cũng không có điều kiện để nghiên cứu và hiểu biết về một sự kiện lịch sử hoàn toàn khác lạ với không chỉ lịch sử của dân tộc Việt Nam, mà của cả thế giới nói chung. Cho nên chưa nhận thấy được Nga xô mượn chủ nghĩa Marx để che đậy bộ mặt thực dân đỏ và Tàu cộng mặc cái áo chủ nghĩa Marx để che đậy tư tưởng bành trướng đại Hán, vốn là tư tưởng tồn tại cả ngàn năm của nước Tàu. Còn việt gian cộng sản dùng chủ nghĩa Marx để che đậy bộ mặt bán nước cho các thực dân đỏ một cách rất tự nguyện.

Tất cả ngôn ngữ của cái gọi là “cách mạng” chỉ là che đậy sự thực lịch sử và đưa quần chúng nhân dân đi vào chỗ mơ hồ.

Ngay từ cuộc chiến ở biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, trên thực tế Tàu cộng đã nắm quyền chỉ đạo, về quân sự, về đào tạo giáo dục (cho mở khu học xá cho người Việt ở Nam Ninh và cũng đào tạo về quân sự về chính trị cho việt gian cộng sản) và cũng từ đó, dựa vào Tàu cộng, Hồ mới cho tái xuất đảng việt gian cộng sản mà chúng đã tự giải tán từ sau tháng 8 năm 1945, để đánh lừa các đảng phái theo tôn chỉ quốc gia dân tộc và toàn dân Việt Nam. Tàu cộng sử dụng đảng việt gian cộng sản trong danh xưng mới là đảng Lao Động Việt Nam để che mắt nhân dân thế giới, chứ còn các đảng phái chính trị trên thế giới thì họ cũng chẳng lạ gì. Tiếp theo đó cũng là Tàu cộng chỉ đạo với sự thôi thúc của Nga sô, Hồ chí Minh và đảng việt gian cộng sản lại trở lại thực thi cái gọi là “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Có khác là do tình hình mới và kinh nghiệm lịch sử cũng như lực lượng những người Việt Nam không theo cộng sản còn rất nhiều, đó là lực lượng mà chúng ta có thói quen gọi là những người Quốc-gia tập trung dưới sự chỉ đạo của Quốc-trưởng Bảo Đại sau khi được Pháp trao trả quyền độc lập. Nhưng vì lúc bấy giờ cái quá khứ thực dân Pháp đã khiến nhân dân Việt Nam chưa đủ tỉnh táo đồng thời những âm mưu nham hiểm của tập đoàn việt gian cộng sản và hai mẫu quốc đỏ Nga sô Tàu cộng chưa bộc lộ thật rõ ràng bộ mặt thực dân, vì chúng đã lợi dụng tập đoàn viêt gian Hồ chí Minh thực thi những công việc mà do thực dân đỏ yêu cầu. Đó là chúng rút ra từ bài học lịch sử của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Cho nên việc chính phủ Bảo Đại chỉ có con đường duy nhất cứu nguy dân tộc trong lúc đó là phải liên-hiệp với Pháp đã khiến bộ máy tuyên truyền của cả hệ thống thực dân đỏ trên toàn thế giới, trong đó có cả tại nước Pháp, phản tuyên truyền, khiến tính chính nghĩa của cuộc chiến chống tụi xâm lược đỏ bị hạ phong. Nhất là việc tuyên truyền và phản tuyên truyền của chính phủ Bảo Đại không những bản thân đã yếu kém và gần như không được sự ủng hộ và hỗ trợ của các tiếng nói trên thế giới.

Có thể nói rằng sự tồn tại của chính phủ Bảo Đại, và sau này là của hai nền đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, chủ yếu về mặt chiến đấu hy sinh là của lực lượng quân sự và nền tảng chính trị ở nông thôn chính là lớp giáo dân. Đó là hai cột trụ của thành trì chống xâm lược đỏ Nga xô, Tàu cộng thông qua lũ ngụy quân việt gian cộng sản và tập đoàn đảng cộng sản việt gian, từ đó cho đến tận nay.

Trận Điện Biên Phủ là đỉnh cao sự thâm nhập quân sự của Tàu cộng vào VN và cũng là đỉnh cao sự phụ thuộc toàn diện của tổ chức việt-gian cộng-sản đối với Tàu cộng bởi vì các cơ quan (chuyên chính và công an) của việt-gian cộng- sản trong thực tế do Tàu cộng lèo lái và phục vụ cho quyền lợi cho Nga xô và Tàu-cộng.

Vì những lý do đó mà việc dọn đường cho đất nước và dân tộc Việt Nam hoàn toàn trở thành tài sản của thực dân đỏ Nga xô, Tàu cộng là việc phải tiêu diệt tất cả bốn tầng lớp rường cột của xã hội Việt Nam, tức là Trí, Phú, Địa, Hào. Phải tiêu diệt đến cái mức độ là đào tận gốc, trốc tận rễ để làm gì? Một đất nước mà các tầng lớp rường cột nói trên trong xã hội bị tiêu diệt thì rõ ràng là chỉ còn có những người lao động bằng cơ bắp. Quả thực là vừa dễ dàng thôn tính, cai trị mà cũng bộc lộ rõ cái dã tâm nô lệ hóa của thực dân đỏ còn tàn bạo hiểm độc gấp triệu lần thực dân phương Tây. Cho nên tội ác của tụi việt gian thờ thực dân đỏ cũng gấp nhiều triệu lần so với tụi việt gian thờ thực dân phương Tây.

Rút kinh nghiệm từ vụ Xô viết Nghệ Tĩnh của năm 1930 – 1931, tên đại việt gian Hồ chí Minh và cái đảng việt gian của chúng lại dùng chữ nghĩa để làm mơ hồ mọi người:
1- Diệt trí được gọi là cách mạng văn hóa tư tưởng cùng với những cuộc chỉnh huấn thường xuyên và bưng bíp thông tin;
2- Diệt Phú được gọi là cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh cùng với hợp doanh và lập các hợp tác xã tiêu thụ cũng như sản xuất;
3- Diệt Địa bằng cái  gọi là cải cách ruộng đất tiến tới hợp tác hóa nông nghiệp;
4-Diệt Hào bằng cái gọi là chỉnh đốn tổ chức tiếp theo là xử dụng lũ vô sản lưu manh thành thị và nông thôn cùng với lũ đầu hàng sau chỉnh huấn vào mọi chức vụ hành chính từ cơ sở tới trung ương.

Với cái gọi là bốn cuộc cách mạng đó, đảng việt gian cộng sản Hồ chí Minh hoàn toàn coi như là được Bolshevick hóa, như lời Hồ đã hứa trong thư gửi quốc tế ba (tức bộ thuộc địa của Nga xô), được viết từ 1929. Có nghĩa là trong đảng việt gian cộng sản hoàn toàn không còn bất kể một ai có ý thức về quốc gia dân tộc, còn lòng yêu nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam mà chỉ toàn là những tên trong mọi hành động và suy nghĩ đều hướng về tổ quốc thứ hai của chúng là Nga xô, cùng với anh Hai của chúng là Tàu cộng.

Hệ lụy của những việc đó được chứng minh bởi sự câm lặng của cả đảng việt gian cộng sản trong những vụ việc dâng đất dâng biển cho Tàu cộng, dâng tài nguyên thiên nhiên và lao động cho Nga xô (như các mỏ dầu, cảng Cam Ranh, lao động ở Si-be-ry, cũng như cuộc hiến xâm lược vào Việt Nam Cộng Hòa, sẵn sàng nổ súng vào dân thường, trường học, các di tích văn hóa lịch sử, các cơ sở tôn giáo.Từ khi Hồ còn sống cho đến nay mọi hành động, đường lối chính sách vẫn là như vậy, toàn dân Việt Nam từ sau 30 tháng 4 1975, dù là ở phía Nam hay phía Bắc đều cùng một thân phận nô lệ đỏ. Còn tập đoàn việt gian cộng sản càng ngày càng bộc lộ rõ là công cụ của Nga xô và Tàu cộng.


Như vậy sẽ có người hỏi tại sao lại có cuộc chiến giữa việt gian cộng sản và Tàu cộng vào năm 1979?

Như chúng tôi đã trình bày nhiều lần, căn cứ vào chính tài liệu của tập đoàn việt gian cộng sản còn giữ lại trong các văn kiện của chúng như “Văn kiện đảng toàn tập hay Hồ chí Minh toàn tập”…  thì đảng việt gian cộng sản là do Nga xô thông qua bộ thuộc địa (tức quốc tế 3) đã cho tuyển lựa nhân sự người Việt Nam, đào tạo về lý luận, huấn luyện về tuyên truyền, về khủng bố và về lật đổ, tạo nội chiến để đạt mục tiêu cuối cùng là cướp được bộ máy nhà nước. Rồi, khi đã nắm được bộ máy nhà nước trong tay, tổ chức việt gian cộng sản thực sự là một chi bộ của đảng cộng sản Nga hay nói cách khác là nhân sự của thực dân đỏ Nga xô để che mắt thế giới cũng như người dân Việt Nam về bộ mặt thực dân đỏ trong việc xử dụng và đất nước và nhân dân Việt Nam như tài sản và nô lệ các loại. Xử dụng nô lệ Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa đỏ cho Nga xô, vì thế Nga sô mới ra lệnh cho tập đoàn việt gian cộng sản phải lấy cái tên là đảng cộng sản Đông dương. Có nghĩa là chúng không chỉ nô lệ hóa nhân dân Việt Nam cho Nga xô mà còn có trách nhiệm bằng mọi cáck kể cả vũ trang nô lệ hóa nhân dân Lào và nhân dân Cambode, cũng như biến toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Động Dương thành thuộc địa đỏ của Nga xô.

Ngay từ khi cho hình thành đảng cộng sản Đông Dương thì Nga xô đã xử dụng nó vào 2 mục đích:
1- Mở rộng thuộc địa đỏ cho Nga xô ra toàn bộ Đông Nam Á. Đó là lý do tên đại việt gian Hồ chí Minh đã được phái đi xây dựng các tổ chức gọi là cộng sản ở cả Thái Lan, Mã Lai…
2- Vì Nga xô biết rằng với một đất nước hơn 9 triệu km vuông, với một dân số vào loại động nhất thế giới vào thời kỳ đó lại được nuôi dưỡng qua hầu hết các triều đại trong lịch sử nước Tàu bằng chủ nghĩa đại Hán bành trướng, thì chắc chắc đảng cộng sản Tàu cũng sẽ theo truyền thống đó để trở thành đối thủ chính yếu trong việc giành chức bá chủ của thế giới thực dân đỏ. Cho nên đảng cộng-sản Đông Dương, một khi hoàn thành sự nghiệp bành trướng đỏ của Nga xô trên cả ba nước Đông Dương sẽ phải là con đê chắn sự bành trướng đại Hán ra vùng Đông Nam Á.

Nhưng vì trong giai đoạn bành trướng thực dân đỏ Nga xô ở Việt Nam mà lại cách xa với mẫu quốc Nga xô, cho nên dưới sự chấp nhận của Nga xô, Hồ chí Minh và đảng việt gian của hắn buộc lòng phải dựa vào Tàu cộng và cũng dành cho Tàu cộng một số quyền lợi như dâng đất dâng biển, như ghi vào điều lệ đảng việt gian của chúng cái gọp là tư tưởng Mao Trạch Đông, cũng như chấp nhận các thái thú Tàu cộng trong cái gọi là thực thi bốn cuộc cách mạng như đã nói ở trên. Phải làm như vậy vì hoàn cảnh lúc đó, với bản chất việt gian bán nước giết dân, Hồ và đảng việt gian cộng sản không thể có con đường lựa chọn thứ hai.

Nếu chúng ta có nghiên cứu kỹ lưỡng về con người Hồ chí Minh thì sẽ thấy rằng hắn đóng khá thành công vai trò hèn hạ khi tuân lệnh các thái thú Tàu cộng, như vụ giết bà địa chủ Nguyễn Thị Năm, mà đã có nhiều ngòi bút đề cập đến. Cũng như Hồ cho rập khuôn tất cả những đường lối chỉ đạo của Tàu cộng trong mọi hoạt động của tổ chức việt gian cộng sản kể cả việc xử dụng những tên việt gian hoàn toàn trung thành tuyệt đối với Tàu cộng như Hoàng văn Hoan, Chu văn Tấn, Lê Quảng Ba, Nguyễn Chí Thanh… và nhận phái viên của Mao tham gia vào chấp hành trung ương của việt gian cộng sản là Lý Ban (vì thế cho nên mặc dù Lý Ban còn rất trẻ tuổi nhưng bao giờ Hồ cũng gọi là tiên sinh.).

Chỉ riêng cái việc Hồ gọi Lý Ban (phái viên của Mao được bổ sung vào ban chấp hành trung ương việt gian cộng sản) là “tiên sinh”, đã cho thấy tên đại việt gian Hồ chí Minh là một tên đầy thủ đoạn. Cùng là cộng sản với nhau, chưa nói đến Lý Ban, về danh xưng là một thành viên trong cái trung ương của tổ chức việt gian cộng sản của Hồ, thế mà Hồ không gọi là “đồng chí hoặc chú” như gọi những tên việt gian cộng sản khác, đủ cho thấy qua việc này:
1. Hồ tôn trọng Lý Ban, không dám đứng ngang hàng, bình đẳng, vì Hồ muốn qua việc này chuyển đến Mao rằng  Hồ một lòng một dạ tôn kính Mao như bề trên hay nói cách khác là ông chủ lớn.
2. Nếu suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy Hồ cũng muốn nhắn nhủ với Nga xô rằng lúc nào hắn cũng nhớ Nga xô đã đẻ ra hắn và cái tổ chức việt gian cộng sản. Vì tình hình lúc đó hắn buộc phải “ở đợ” cho Tàu cộng nhưng vẫn ghi nhớ rằng cần phải giữ khoảng cách (nghĩa là có sự phân biệt) với Tàu cộng. Và đây cũng là một cách báo hiệu cho những tên việt gian cộng sản xung quanh hắn biết được thái độ của hắn đối với Nga xô và Tàu cộng để tùy trình độ thông minh của từng đứa mà có cách ứng xử cho thích hợp.

Nhưng mọi hành động và ngôn ngữ của Hồ làm sao qua được mắt của Mao, cho nên khi Hồ chết (9/1969), cả Mao và Lâm Bưu biểu hiện sự nhạt nhẽo bằng cách chỉ cho thư ký riêng mang vòng hoa đến viếng Hồ tại sứ quán việt gian cộng sản ở Bắc Kinh. Còn trước đó, khi việt gian Nguyễn chí Thanh chết (1967), cả Mao và Lâm Bưu đều đích thân đến sứ quán việt gian cộng sản ở Bắc Kinh và cùng nghiêng mình tưởng niệm một cách trân trọng đối với tên việt gian trung thành Nguyễn chí Thanh.


Cho nên tên đại việt gian Hồ chí Minh đã rất láu cá khi hắn làm ra vẻ chấp hành ngoan ngoãn các chỉ thị dạy bảo của phái viên của Mao một cách rất lộ liễu, là nhằm hai mục đích một lúc:
  1. Núp sau lưng các tên cố vấn do Mao phái sang và xử dụng các biện pháp tàn bạo thú tính của Tàu cộng để thực thi cái gọi là “Trí, phú, địa , hào, đào tận gốn, trố tận rễ”, nhằm dọn đường cho sự cai trị toàn diện và tuyệt đối của Nga xô ở Việt Nam trong tương lai. Nếu ai đó ca thán thì sẽ chỉ nghĩ rằng Hồ bị bắt buộc phải làm theo ý Mao mà thôi. Đến nay lũ phản tỉnh cuội, đặc công đỏ như tụi Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn minh Cần và sử nô các loại là người Việt Nam ở cả trong và ngoài nước, mà cả người ngoại quốc nữa cũng vẫn mơ hồ về chuyện đó nên cho rằng Hồ chỉ có tội không dám cưỡng lại lệnh của Mao?!!
  2. Làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam thầm oán Tàu cộng. Đồng thời cũng là dọn đường cho màn hề sau này của Hồ được gọi là “Hồ sụt sùi nước mắt xin nhận có sai lầm trong Cải cách ruộng đất và v.v…, vì bị sức ép của các cố vấn Tàu cộng.

Mao cũng chẳng lạ gì Hồ, nên hắn đã lợi dụng thời thế đó, “thừa gió bẻ măng” để lấn đất, lấn biển, ra mặt can thiệp và chỉ đạo trực tiếp vào mọi hoạt động của tập đoàn việt gian cộng sản. Mao bắt Hồ phải chấp nhận để biến Việt Nam thành bãi rác thải công nghiệp, như phải xây dựng khu công nghiệp liên hợp gang thép ở Thái Nguyên (là đồ phế thải từ nhà máy ở Mãn Châu của Nhật từ thời thế chiến đệ nhất) cho nên càng sản xuất thì càng lỗ, giá thành cao gấp chục lần so với nhập ngoại. Như phải nhận xây dựng khu liên hợp công nghiệp Việt Trì, nhà máy dệt 8-3, nhà máy xay sát gạo Hưng Yên, Hà nội,v.v…  Như phải giữ nguyên hệ thống đường xe lửa đã lạc hậu từ thời thực dân Pháp để lại. Đó là lý do Tàu cộng bắt phải cho mở đường bộ từ Tàu sang Việt Nam đến tận Đông Anh, Hà nội. Cũng như tập đoàn việt gian Hồ chí Minh buộc phải cho quân Tàu cộng độc quyền quản lý khu núi Cánh Diều (Ninh Bình); phải xây đài thu phát sóng truyền thanh khá tối tân, do Nga xô viện trợ, ở biên giới Cao Bằng với Tàu. Cho nên trong trận xâm lược 1979, Tàu cộng đã nhanh chóng chiếm đài thu phát này và gỡ toàn bộ máy móc mang về Tàu.

Một mặt Tàu cộng vẫn giúp đỡ tận tình việt gian cộng sản vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, một mặt ngấm ngầm tìm cách móc nối với Việt Nam Cộng Hòa (nhưng không thành công) và bắt đầu kế hoạch tháo gỡ cái thế gắn bó của ba nước Việt, Miên, Lào qua bàn tay của cái gọi là đảng cộng sản Đông Dương, là con đẻ của bành trướng Nga xô ở Đông Nam Á. Cho nên năm 1951 Mao thúc ép Hồ phải cho tái xuất hiện tập đoàn việt gian cộng sản trong danh xưng mới là đảng Lao động Việt nam để xé lẻ cái đảng cộng sản Đông Dương (công cụ của Nga xô) thành ba mảng là:
1.     Đảng Lao động Việt nam;
2.     Đảng nhân dân cách mạng Lào;
3.     Đảng nhân dân cách mạng Cambode.

Và từ đó Mao tìm cách giảm ảnh hưởng của cộng sản Việt Nam trong tổ chức của Lào và của cả Cambode.

Độc địa hơn nữa, sau này khi tập đoàn việt gian cộng sản Hồ chí Minh phải dựa vào Mao để vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, Mao còn ép Hồ phải dựng ra cái gọi là đảng nhân dân cách mạng Việt Nam ở trong Nam, và phải đưa tên việt gian Nguyễn chí Thanh, một tên cuồng tín thờ Tàu cộng, vào Nam giữ chức vụ bí thư của cái đảng nhân dân cách mạng Việt Nam đó. Để nếu khi vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa thành công thì cái đảng nhân dân cách mạng Việt nam do Nguyễn chí Thanh cầm đầu sẽ là công cụ của Tàu cộng, và sẽ liên kết với nhóm Pôn-Pốt của cộng sản Cambode cũng như với cộng sản Lào qua nhân vật Xu-va-na Phu-vông để khống chế trở lại đi tới triệt tiêu cái gọi là đảng Lao-động Việt nam của Hồ ở phía Bắc vì thế Mao đã có kế hoạch không chỉ nắm chặt lấy Pôn Pốt, Iên-xa-ri, Khiêu-xăm-phon đồng thời cũng nuôi dưỡng nhân vật Sihanouk và gia đình. Đối với Lào thì giúp nhà vua Lào và tìm cách hoà giải hai anh em Xu-va-na Phu-ma (thủ tướng chính phủ vương quốc Lào) và Xu-va-na Phu-vông, là ủy viên bộ chính trị của đảng nhân dân cách mạng Lào (tức cộng sản). Và Mao còn lợi dụng việc độc quyền làm đường giao thông bộ ở phía Bắc Việt Nam để làm luôn giao thông bộ cho Lào tới sát biên giới Cambode (chỉ cách độ 15 km). Từ đó nhiều hàng viện trợ của Mao cho Lào và Cambode, trước đây phải qua tay việt gian cộng sản, thì đã phần lớn trao trực tiếp cho Lào và Cam bốt, nhằm phá sự khống chế của việt gian cộng sản đối với các đảng cộng sản Lào và Cambode.


Giờ xin được quay trở lại từ hội nghị Genève năm 1954 về Việt Nam. Chính vì muốn nắm chặt hơn nữa tập đoàn việt gian cộng sản, nên Tàu cộng mới hãm cái đà thừa thắng xông lên của cái gọi là “chiến thắng Điện Biên Phủ” để quyết định chia đôi Việt Nam, buộc Hồ tuy trung thành với Nga xô, nhưng về địa lý lại cách xa ngàn trùng, nên dù muốn hay không Hồ bắt buộc phải phụ thuộc vào Tàu cộng để vũ trang xâm lược nốt Việt Nam Cộng Hòa. Như thế Mao mới càng có điều kiện thâm nhập về nhân sự và gây ảnh hướng sâu rộng trong mọi sinh hoạt xã hội ở Việt Nam và cả trong nội bộ đảng việt gian cộng sản.


Ta thử hỏi, tại sao Hồ và tập đoàn việt gian cộng sản đã thờ Nga xô là mẫu quốc, lại có thể chấp nhận thỏa mãn mọi yêu sách của Tàu cộng?

Lý do không có gì là khó hiểu. Nếu chúng ta thực sự bỏ công sức nghiên cứu thì sẽ thấy rằng: Bản chất Hồ là một tên đại việt gian, tuyệt đối trung thành với Nga xô. Hắn đã lèo lái cho toàn đảng của hắn trung thành với Nga xô (như lời hứa trong lá thư năm 1929) và cũng bằng nhiều biện pháp làm cho toàn đảng việt gian cộng sản trung thành với hắn (tức là xử dụng cái gọi là bốn cuộc cách mạng. Cho nên hắn tự xưng là “cha già dân tộc”; đổi tên Quân-đội Quốc-gia thành cái gọi là quân đội nhân dân và “lính cụ hồ”; “công an cụ Hồ”, “dân cụ Hồ”, “thiếu nhi cụ Hồ”, “đất cụ Hồ”, “gạo cụ Hồ”, thậm chí cả “hạt muối cụ Hồ” và v.v…

Cho nên Hồ đã thực thi bốn cuộc cách mạng kết hợp với âm mưu cho con đường vì Nga xô mà chống Tàu cộng như kế hoạch mà Nga xô đã trao cho khi đặt tên đảng cộng sản Việt Nam là đảng cộng sản Đông Dương vào 1930.

Vì thế:
  1. Hồ cho tiêu diệt các thành phần rường cột của Việt Nam, để lại thành phần lao động cơ bắp, như thế dễ dàng chấp nhận thân phận làm nô lệ cho Nga xô qua mỹ tự “vô sản quốc tế”, “thế giới đại đồng”, để sau đó dễ dàng chịu sự phụ thuộc toàn diện như thí dụ “thực hiện phân công trong kinh tế xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo “!” Như thế trên thực tế chúng thừa nhận Nga xô là chủ nhân ông một cách toàn diện: Cả đất đai sông biển, cả con người Việt Nam là tài sản của Nga xô. Còn đảng việt gian cộng sản là nhân sự trong bộ máy do Nga xô chỉ đạo để quản lý và khai thác những tài sản đó cho Nga xô.
  2. Tiêu diệt các tôn giáo để tạo ra một thứ tôn giáo mới (núp dưới khái niệm “đảng”, nhằm trói buộc người dân Việt Nam đặc biệt là lũ đảng viên việt gian cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho Nga xô. Cái tôn giáo mới này có các thần thánh là lũ cầm đầu của đảng cộng sản Nga xô; các chức sắc giữ đền thờ là những tên việt gian cộng sản từ trung ương tới địa phương; toàn thể nhân dân Việt Nam sẽ bị bó buộc phải là tín đồ của cái tôn giáo đó (như Hồ đã hứa với Nga xô từ 1929 là Bolshevik toàn đảng tiến tới Bolshevik toàn dân Việt Nam); Còn thiên đường là cái gọi “thế giới đại đồng” do Nga xô vẽ ra, ở ngay dưới trần!? Nhưng cái thiên đường đó chưa bao giờ xuất hiện và cũng sẽ chẳng bao giờ xuất hiện, vì ngay tụi cầm đầu các tổ chức cộng sản trên toàn thế giới cũng cãi nhau như ếch nhái trong đêm, mà cũng chẳng kẻ nào mô tả được cái thiên đường đó dài ngắn, rộng hẹp ra sao!!!
  3. Đặc biệt lợi dụng cái gọi là bốn cuộc cách mạng, Hồ cho tiêu diệt những người Việt Nam dù đang ở trong hay ngoài tổ chức việt gian cộng sản, vẫn còn giữ lòng yêu nước, còn tự hào là người Việt Nam, còn ghi nhớ tinh thần quốc gia dân tộc cũng như truyền thống văn hóa và lịch sử của dân tộc. Hồ cũng nhằm tiêu diệt từ cơ sở những ảnh hưởng của nhóm Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt, Chu văn Tấn…, là nhóm ảnh hưởng của Tàu cộng. Và một mặt nữa, Hồ cho thanh lọc để trong đảng việt gian cộng sản chỉ còn lũ vô sản lưu manh thành thị và nông thôn; và những lũ dù có được ăn học thì cũng đã đầu hàng, phản bội lại quốc gia dân tộc, nghĩa là một lũ mặt người dạ thú như kiểu Bùi Tín, Nguyễn đình Thi, Cù huy Cận, Hoàng minh chính, Võ nguyên Giáp, Tố Hữu và … 
Nhờ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, Hồ và tập đoàn việt gian cộng sản được tạm thời quản lý nửa nước Việt Nam, từ vỹ tuyến 17 trở ra Bắc, thì ngụy quyền việt gian cộng sản Hồ chí Minh đã có nhiều điều kiện trực tiếp nhận viện trợ mọi mặt và các loại cố vấn Nga xô cho việc bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ Nga xô ra toàn Đông Dương.

Trước đó, Nga xô muốn tiếp xúc với việt gian cộng sản chỉ có thể dùng đường bộ và đường sắt nhưng phải đi qua Tàu cộng (suốt từ Bắc chí Nam nước Tàu). Còn từ khi Hồ được vào Hà-nội thì Nga xô đã trực tiếp xử dụng đường hàng không qua các sân bay Gia Lâm, Hà nội; Cát bi, Hải Phòng và cả sân bay Vinh, Nghệ An cũng như sân bay Bạch mai, Hà-nội nhưng có giới hạn vì hai sân bay Vinh và Bạch Mai quá nhỏ. Về đường biển Nga xô xử dụng các cảng Hải Phòng; cảng Hòn Gai, Quảng Ninh và cảng Bến Thủy (Vinh, Nghệ An).

Tòa sứ quán Nga xô thật là đồ xộ, chiếm trọn vẹn trường nữ trung học của thực dân Pháp xưa kia, có tên Félix Faure; gần như tất cả các vila to và đẹp gần quanh đó, kể cả những vila ở đường Khúc Hạo, Trong đó có tư gia của Phạm văn Đồng, liền tường với sứ quán Nga xô, và đi bộ chỉ độ 10 phút là đế phủ chủ tịch ngụy quyền việt gian cộng sản của Hồ (sau này Hồ cho làm thêm ngôi nhà sàn ở trong đó, chứ không phải như tên Trần Nhu bịa chuyện đăng trên web VietnamExodus và vài web điện tử khác rằng ngôi nhà sàn đó ở 12 Ngô Quyền, Hà-nội!?!?!?); cũng chỉ hơn 10 phút là tới khu văn phòng trung ương đảng việt gian cộng sản; chiếm toàn bộ trường trung học Albert Sarraut. Từ sứ quán Nga xô đến phủ thủ tướng ngụy quyền của Phạm văn Đồng (ở sau lưng của phủ chủ tịch của Hồ); đến bộ ngoại giao ngụy quyền việt gian cộng sản (sở tài chánh thời thực dân Pháp) cũng chỉ khoảng 15 phút đi bộ. Và nếu đi tới tư gia của bọn việt gian Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp, Nguyễn duy Trinh, Tố Hữu, Nguyễn văn Vịnh và Lê Liêm… cũng chừng 15 đến 20 phút là cùng.


Nga xô thì thâm hiểm, còn Tàu cộng thì đại lưu manh.

Cho nên một mặt Nga xô cho quan chức thuộc địa đỏ ào ào sang Bắc Việt Nam, với danh xưng Nga xô, thì cũng cho tuyển người để đào tạo, cả từ quân sự đến khoa học kỹ thuật; cả từ văn hóa nghệ thuật đến giáo dục… trong con em của việt gian cộng sản, nghĩa là nắm lấy tầng lớp trên trong số nô lệ đỏ. Như về quân sự, các sĩ quan ngụy quân được cho qua Nga xô đào tạo lại kể cả lũ tướng lãnh như Văn tiến Dũng, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, hoàng minh Thảo, Phạm ngọc Mậu, Nguyễn Quyết, Hoàng Cầm, Phùng thế Tài, Giáp văn Cương, Vũ Lăng, Lê ngọc Hiền, Nguyễn văn An, Phạm Hồng Cư… Hầu hết lũ nắm về khoa học kỹ thuật đều có Nga xô đào tạo, từ Nguyễn văn Hiệu, Nguyễn văn Đạo, Nguyễn đình Tứ, Vũ đình Cự đến Phan đình Diệu; cũng như về khoa học xã  hội là Đặng xuân Kỳ, con trai của Trường Chinh; Phan đăng Tâm; con trai của Phan đăng Lưu và những tên khác như Nguyễn hữu Chỉnh (tiến sĩ chính trị kinh tế) từng phụ trách bình luận chính trị quốc tế của báo Nhân Dân từ thời kỳ Hoàng Tùng làm tổng biên tập, cho đến Tô ngọc Thanh, viện trưởng dân tộc học (con của Tô ngọc Vân), Nguyễn văn Phúc viện trưởng viện văn học; Xuân Trường, viện trưởng viện nghệ thuật , sau còn giữ chức trưởng ban văn hóa tư tưởng và … Ngay cả các cán bộ của trung ương việt gian cộng sản như Hoàng Tùng, Trần quang Huy, Trần Vỹ, Trần Sâm (hai tên này là phó bí thư việt gian cộng sản ở Hà nội qua các đời bí thư thứ nhất theo thứ tự, Trần quốc Hoàn, Trần danh Tuyên, Nguyễn văn Trân, Nguyễn Lam, Hoàng văn Hoan, Lê văn Lương, Nguyễn thanh Bình (cháu rể của Lê Đức Thọ).

Còn Tàu cộng chỉ đào tạo một số giáo viên bậc trung học, như kiểu Tôn gia Ngân (con trai Tôn quang Phiệt), sau làm trưởng ty giáo dục Thanh Hóa, quan thày đầu tiên của cuội dân chủ Nguyễn thanh Giang và là cha đẻ của Tôn vân Anh, trong nhóm cuội ở Đông Âu hiện nay. Tàu cộng cũng đào tạo công nhân ngành đường sắt, xây dựng cầu cống và đường bộ, thợ dệt và đặc biệt nắm chặt khu liên hợp gang thép Thái Nguyên và khu công nghiệp Việt Trì. Ngoài ra Tàu cộng cũng đào tạo một số cán bộ chính trị cho ngụy quân việt gian cộng sản, một số trong tuyên huấn, dân vận, công đoàn… Thí dụ như việt gian Nguyễn Chương, ủy  viên ban tuyên giáo trung ương, cán bộ giảng dạy chính trị của trường Nguyễn ái Quốc, sau làm bí thư tỉnh ủy của cộng sản ở tỉnh Hải Dương và sau cùng là thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn việt gian cộng sản của bộ nông trường ngụy quyền việt gian cộng sản, mà tên thiếu tướng việt gian cộng sản Đặng kiên Giang (trong vụ án xét lại) cũng là thứ trưởng.

Cả Nga xô và Tàu cộng đều công khai tìm mọi cách nắm lấy tập đoàn việt gian cộng sản cũng như tuyên truyền đường lối sùng bái Nga xô hoặc Tàu cộng trong nhân dân Việt Nam.

Tóm lại là Hồ biết rằng Tàu cộng dư biết quan điểm chính trị của Hồ là hoàn toàn ngả về phía Nga-xô. Nhất là từ khi Hoàng văn Hoan, rời chức đại sứ việt-gian-cộng-sản tại Bắc-kinh để trở về VN nhằm có thể thường xuyên dự họp bộ chính trị việt-gian-cộng-sản, thì Hồ chỉ cho họp khi nào Hoan vắng mặt. Cho nên Hoàng văn Hoan phát chán, suốt ngày đến nhà bồ nhí ở đường Quan Thánh, Hà-nội, hú hí. Còn không thì lại than đau ốm, đi nước ngoài chữa bệnh, chủ yếu là sang Tàu cộng.

Tàu cộng chuẩn bị cho việt-gian-cộng-sản "một bài học" từ khi đó, nhưng vì còn mắc chuyện rối ren trong nước về cái gọi là "cách mạng văn hóa" với các "tiểu tướng hồng vệ binh" và chưa nắm được Lào cộng. Lợi dụng những khó khăn đó của Tàu cộng, Nga-xô càng đẩy mạnh viện trợ cho việt-gian-cộng-sản về quân sự từ nhu cầu phòng thủ ở phía Bắc VN chống không quân Mỹ đánh "leo thang", cho đến việc xâm lược VNCH. Còn Hồ, để xoa dịu cơn phẫn nộ của Mao, đã đi một nước cờ khá lưu manh. Đó là trao cho Trần Quỳnh, thư ký riêng của Lê Duẩn, soạn một loạt tài liệu lên án chủ nghĩa xét lại hiện đại, vừa cho tổ chức học tập và nghe báo cáo cho các cán bộ trung cao, vừa cho bày bán công khai ở các cửa hàng sách, kể cả ở cửa hàng sách ngoại văn, cũng như cửa hàng sách nhà xuất bản sự thật (nơi chỉ bán các sách lý luận kinh điển về cộng sản).

Tất nhiên, Trần Quỳnh là kẻ có học theo hệ thống chính quy, chứ không như Cuội Hoàng minh Chính, học lực phổ thông mới đến "lớp đệ ngũ hay đệ tứ gì đó" (bọn Bùi Tín, Vũ thư Hiên cũng rứa), nhờ đường lối giai cấp nên cho qua Nga-xô học ngay đại học (về xã hội). Cho nên Trần Quỳnh đã soạn tài liệu đúng với mong muốn của Hồ. Vì thế, tại đại hội việt-gian-cộng-sản lần 4 (1976), Quỳnh được là một trong 101 tên trong trung ương của việt-gian-cộng-sản. Quỳnh còn nhanh chóng được cho làm phó thủ tướng cho Phạm văn Đồng cùng thời với Tố Hữu (phó thủ tướng thường trực), sau này hắn còn được vào bộ chính trị việt-gian-cộng-sản.

 Trung thành với quan điểm thần phục Nga-xô của Hồ, cũng như làm sao quên được, sau đại hội 3 việt-gian-cộng-sản, tháng 11-1960, được Hồ giắt sang Nga-xô dự họp 81 đảng cộng sản, nhân tiện giới thiệu với quan thày, trong diễn văn của mình, Lê Duẩn đã công khai tuyên bố "Liên bang Xô-viết là tổ quốc thứ hai của chúng tôi". Vì thế, sau đại hội 4 việt-gian-cộng-sản, chúng quay trở lại cái tên là "đảng cộng sản VN", rồi sau đó đổi tên nước thành "cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN". Chúng cho di dân từ Bắc vào Nam, đi cả làng, chủ yếu là các vùng khu 5, Tây nguyên…,đồng thời thành lập tổng cục kinh tế của bộ quốc phòng, nhằm thực hiện "lập nông trường quân đội", nghĩa là vẫn giữ nguyên đơn vị chiến đấu để vừa làm nông nghiệp và lâm nghiệp, vừa sẵn sàng chiến đấu. Rồi tổ chức huấn luyện rà mìn cho địa phương. Đó là sự trá hình của việc huấn luyện quân sự cho thanh niên, dân quân ở các làng xã của miền Nam VN. Còn di dân cả làng và lập nông trường quân đội là một cái chuyển quân, chuẩn bị cho cuộc chiến Tây Nam sau này.

Cùng một lò cướp ngày mà ra, cho nên Tàu cộng chẳng lạ gì âm mưu đó. Vì thế, mặc dù còn nhiều khó khăn sau cái gọi là "cách mạng văn hóa", Tàu cộng vẫn ồ ạt viện trợ quân sự trực tiếp cho Pol-pốt. Những nhân vật Tàu cộng tai to mặt lớn qua lại Nông-pênh như con thoi, tỷ dụ như Đặng dĩnh Siêu, vợ của Chu ân Lai, rồi Uông đông Hưng, thường vụ bộ chính trị Tàu cộng (một bày tôi thân tín của Mao), cùng cố vấn, chuyên gia đủ loại, hệt như với việt-gian-cộng-sản sau 1954.

Năm 1978, Lê Duẩn cùng các ủy viên bộ chính trị việt-gian-cộng sản sang triều kiến mẫu quốc Nga-xô, ký cái gọi là hiệp ước " hòa bình hữu nghị, hợp tác toàn diện và triệt để ". Đó chính là khế ước bán nước trọn vẹn cho Nga-xô và tiếp tục vì Nga-xô mà bôn-sê-vích hóa toàn Đông dương và ra vùng Đông-Nam-Á, như Nga-xô đã trao nhiệm vụ cho tập đoàn việt-gian-cộng-sản từ 1930 !!!

Cho nên, dù không có cái gọi là gây rối và "cáp duồn" của quân Pol-pốt ở biên giới thì ngụy quân việt-gian-cộng-sản vẫn có cả 1001 lý do "rất chính đáng"để đem quân xâm lược Căm-bốt. Việc xâm lược Căm-bốt đã có trong lịch trình hoạt động của đảng cộng sản Đông dương (tiền thân của việt-gian-cộng-sản) do Nga-xô vạch ra từ 1930 !!! Còn một lý do nữa để tập đoàn việt-gian-cộng-sản ưu tiên làm chiến tranh hơn là xây dựng, hàn gắn vết thương chiến tranh tại VN. Đó là, việt-gian-cộng-sản muốn nhổ tận rễ những mầm mống của ý thức Quốc gia-Dân tộc ở VN, tức là con em người dân VNCH, ở lớp tuổi thanh, thiếu niên vào thời 1975. Chúng không có lý do bỏ tù mà cũng không thể bỏ tù ngay được. Bài học những thiếu niên ở độ tuổi 15,16 ở vùng Hố Nai là một điển hình, đã võ trang tấn công các đồn bốt của công an việt-gian-cộng-sản, chứ chưa nói đến những người lớn tuổi. Và, những thanh, thiếu niên đó đã bị tập đoàn việt-gian-xâm-lược kết những án tù thật nặng nề: từ 16 đến 20 năm tù khổ sai. Chính tôi đã chung sống trong cùng một trại tù với những thanh, thiếu niên đó ở trại tù Z30D, Hàm tân, Thuận hải. Điều khiến việt-gian-cộng-sản lo ngại là những thanh, thiếu niên đó, nhiều người không có thăm nuôi của gia đình, vì quá nghèo sau khi VNCH bị việt-gian-cộng-sản đặt ách thực dân đỏ, nhưng chưa thấy một người nào làm ăng-ten, hoặc làm trật tự ác ôn v.v…mà còn hay tìm cách đánh ăng-ten, trật tự. (Không như kẻ khoe nhà văn, nhà báo lâu năm mà trong tù bị trùm mền đánh nhừ tử, vì tội làm ăng-ten !). Cho nên việt-gian-cộng-sản giải quyết bằng cách bắt con em nhân dân VNCH vào ngụy quân để xâm lược Căm-bốt. Đúng là một công đôi việc: vừa mượn quân lính của Pol-pốt giết cái lực lượng bị nghi ngờ đó, vừa thực thi được âm mưu bành trướng thuộc địa đỏ cho mẫu quốc Nga-xô. Cho đến nay, con số thương vong của cái lực lượng đó, mà chúng ta được biết, có thể còn dưới sự thực nhiều, mà đã là hơn 600 ngàn bị chết và hơn 400 ngàn thành phế nhân. Một con số thật khủng khiếp !!! Việt-gian-cộng-sản chỉ cần phát ra khoảng hơn 600 ngàn bảng "gia đình vẻ vang", và cũng hơn 400 ngàn gì đó bằng khen các loại, thế là xong. Và chừng một triệu gia đình nạn nhân là công dân của VNCH, bỗng biến thành "gia đình cách mạng" (nghĩa là ở vị trí đối lập với VNCH)!!!
Đó cũng là lý do vì sao không thấy sự phản kháng trong tầng lớp thanh niên ở miền Nam VN, và đa phần không có một khái niệm gì về cuộc sống ở VNCH xưa kia, trên mọi lãnh vực !
Bài học nói trên là việt-gian-cộng-sản đã "áp dụng tư tưởng Mao" trong việc đưa lính Tàu của Tưởng giới Thạch đầu hàng trong danh xưng "chí nguyện quân Trung quốc viện Triều (tiên) chống Mỹ" bằng chiến thuật "biển người" để cho Mỹ tha hồ thực thi chiến thuật "cối xay thịt", mệt nghỉ luôn ! Thế là hết hậu họa mà lại cột chặt ân tình của Bắc Hàn vào Trung nam hải.

Năm 1979, sau khi đi Mỹ về, Đặng tiểu Bình, vẫn còn phải cư trú tại Quảng Đông, trong sự bảo vệ của Diệp kiếm Anh, đã thực hiện việc dạy cho việt-gian-cộng-sản một bài học.

Việc dạy cho việt-gian-cộng-sản là một điều bức thiết đối với Đặng, vì:
          1) Đặng cần phải về Bắc kinh, để củng cố quyền lực cá nhân. Nhờ Mao giáng chức mấy lần, Đặng mới biết một kẻ nguy hiểm còn hơn cả Lâm Bưu, đó là Ngô Đức, kẻ thật sự có thực lực trong lúc đó, vì hắn nắm các chức vụ : ủy viên thường vụ bộ chính trị; chủ tịch ủy ban cách mạng quân khu Bắc kinh; chủ tịch thành phố Bắc kinh; ủy viên thường vụ quân ủy trung ương; tư lệnh kiêm bí thư quân khu ủy quân khu Bắc kinh. Và, cái quân khu Bắc kinh ấy có 4 quân đoàn được trang bị tối tân nhất trong toàn bộ binh lính của Tàu cộng. Nhờ việc đánh VN mới điều động được một số quân của Bắc kinh đi, và trám vào đó là quân của quân khu Tân cương do nguyên soái Trần Vân chỉ huy. Nhờ thế đã bất thần bắt sống được Ngô Đức. Và họ Đặng đã quay được về Bắc kinh.
          2) Đánh VN lúc đó vì ngụy quân việt-gian-cộng-sản đang sa lầy ở Căm-bốt, nên có thể chiếm được nhiều chiến lợi phẩm thuộc 6 tỉnh của VN ở biên giới, đồng thời lại lấn thêm được một số đất đai và còn không tốn người, tốn của nhiều lắm để chiếm hết các cao điểm chiến lược. Chưa nói đến là cho đến nay vẫn chưa ai thống kê được có bao nhiêu bản làng vì sợ bị giết nên đã mặc nhiên tự nhận là người Tàu, và đương nhiên là ruộng nương của bản làng cũng trở thành của Tàu !!!

Qua sự việc trên, chúng ta lại thấy thêm một trọng tội nữa của tập đoàn việt-gian-cộng-sản đối với đất nước và nhân dân VN chúng ta. Vì quyền lợi của Nga-xô, chúng đã đẩy vào lò lửa chiến tranh cả người cả của, cả đất đai của VN cho Tàu cộng. Ký hiệp ước với Nga-xô mà Nga-xô đâu có cứu giúp gì. Không những thế, trước bao khó khăn trên mọi lĩnh vực chỉ vì quyền lợi của Nga-xô vậy mà phải cấp thời trả nợ chiến phí cho Nga-xô, dâng cảng Cam ranh không được một cắc bạc lẻ ; và trong liên doanh về dàu khí thì kết quả thảm hại hơn cả con chó săn khi săn được con mồi "chủ ăn thịt, chó gặm xương". Đây thì chủ Nga-xô cũng gặm nốt luôn cả xương rồi đem nấu cao !!!

Tập đoàn việt-gian-cộng-sản đã được bài học nhớ đời đó, cho nên khi Nga-xô sụp đổ thì chúng thống nhất quay lại một lòng một dạ thờ Tàu cộng, miễn rằng Tàu cộng cho phép chúng được làm như thân phận của con chó săn. Ngoại trừ các thành viên trong cái tổ chức việt-gian-cộng-sản chấp nhận thân phận CHÓ SĂN, nghĩa là vẫn tiếp tục ở lại đảng việt-gian-cộng-sản, vẫn tiếp tục phấn đấu làm đơn xin gia nhập và thề trung thành cho đến hơi thở cuối cùng mọi tôn chỉ cũng như âm mưu của tổ chức và có thể phê phán cá nhân, thậm chí giết cả con người hoặc giết sinh mệnh chính trị của cá nhân đó (vì ai ai thì trước sau cũng vào ngủ ở nghĩa địa muôn năm) nhưng tuyệt đối phải bảo vệ toàn bộ tổ chức việt-gian- cộng-sản. Nghĩa là cá nhân có thể sai, còn cái tổ chức việt-gian-cộng-sản thì không bao giờ sai!!!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét