Bài 09
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Ngày 28/4 đến 3/5/1956, với cương vị “tổng bí thư”, Trường Chinh triệu tập hội nghị cán bộ trung và cao cấp của mafia đỏ để phổ biến nghị quyết 20 của Nga-xô. Chẳng biết trước đó Trường Chinh có cho chân tay đi vận động ngầm không, nhưng trong hội nghị đã có ý kiến về việc Hồ tự đề cao mình cũng như có nạn “sùng bái cá nhân” trong “đảng”. Có thể Trường Chinh rất khoái, nhưng không may cho Trường Chinh là đồng thời nhiều ý kiến phê bình về cải cách ruộng đất, về nạn cửa quyền của mậu dịch, về tệ nạn của khai báo hộ khẩu, về thái độ không đúng đối với văn nghệ sỹ v.v… nghĩa là những vấn đề dính đến trách nhiệm của Trường Chinh, nên Trường Chinh đấu dịu, hắn nói: “Có tệ sùng bái cá nhân nhưng chưa đến nỗi quá đáng v.v…” và hứa sẽ xem xét lại. Sự do dự mất tự tin khiến Trường Chinh bỏ lỡ cơ hội dựa vào sự bất mãn của cán bộ trung cao để lật Hồ (sợ bị nhào theo). Thế là Hồ thủ lợi.
Vừa thoát hiểm, để cho chắc ăn hơn, Hồ cho triệu tập hội nghị lần 10 (khóa 2) vào tháng 9-1956, qui trách nhiệm về sai lầm cải cách ruộng đất cho Trường Chinh, Hoàng quốc Việt và lột chức tổng bí thư của Trường Chinh, đuổi Hoàng quốc Việt ra khỏi chính trị bộ, còn là ủy viên trung ương thôi. Lê văn Lương cũng bị ra khỏi chính trị bộ, còn là dự khuyết trung ương. Còn Hồ, hắn vẫn là chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư. Thấy Hồ gian hùng chưa?
Kể từ đó, ngoài Hồ ra, không ai có tư cách triệu tập hội nghị trung ương.
Gạt được Trường Chinh và chân tay của hắn rồi, Hồ còn nghi ngờ một nhân vật nữa là Võ nguyên Giáp. Tuy rằng Giáp chưa có bất kỳ một biểu hiện nào là chống đối Hồ, nhưng vì bấy giờ Giáp lại là người có nhiều ưu thế:
- Được coi là người có công đầu “đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ”, đã “giải phóng được một nửa đất nước”;
- Giữ ghế ủy viên chính thức của chính trị bộ mafia đỏ, bộ trưởng quốc phòng, đại tướng tổng tư lệnh, bí thư quân ủy trung ương;
- Uy tín của Giáp lên như diều trong cả lực lượng vũ trang, trong cả nhân dân – nông thôn thành thị – trong cả học sinh, sinh viên, trí thức và văn nghệ sỹ;
- Uy tín cả trong nước và ngoài nước;
- Thêm nữa, Giáp không mắc các tội “sùng bái cá nhân”; không dính đến “cải cách ruộng đất”…
Nếu “anh cả đỏ Nga-xô” hay “anh hai Trung cộng” mà đi đêm được với Giáp thì Giáp có thể là người duy nhất lật đổ Hồ một cách dễ dàng.
Vì thế Hồ đã đi một quả thử lòng Võ nguyên Giáp. Kiểu thử này Hồ cũng đã từng làm qua với cựu vương Bảo Đại. Chẳng là trước ngày ký kết Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), khi ấy cựu vương Bảo Đại là cố vấn tối cao của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, cư ngụ tại 51 Trần Hưng Đạo (Hà-nội). Một bữa đến thăm cựu vương Bảo Đại, Hồ năn nỉ Bảo Đại giữ chức chủ tịch chính phủ vì hắn không đủ uy tín nên Pháp gây nhiều khó khăn. Vì cũng chẳng hiểu tâm lý của Hồ nên đáng ra từ chối thì cựu vương Bảo Đại lại nói với Hồ rằng để bàn lại xem. Khi bàn với các người thân cận gồm các cụ Trần trọng Kim, luật sư Nguyễn mạnh Hà, cụ Hoàng xuân Hãn v.v… có mặt cả tên “chỉ điểm” của Hồ là Phạm khắc Hòe (nguyên thư ký của cựu vương Bảo Đại). Nhiều người khuyên dù Hồ giả vờ hay thực thì cũng vì việc lớn của đất nước cựu vương nên nhận lời. Chắc chắn chỉ có Phạm khắc Hòe báo cáo, nên ngay hôm sau Hồ gặp cựu vương Bảo Đại, rút lại ý kiến hôm trước. Hắn nói đại ý, dù khó khăn mấy hắn cũng cố đảm nhận trách nhiệm đã được Quốc hội I giao phó. Đó là nguyên nhân Hồ đề nghị cựu vương Bảo Đại cầm đầu một phái đoàn đi Trùng-khánh gặp Tưởng giới Thạch. Rồi hắn cắt tiếp tế khiến cựu vương Bảo Đại phải ở lại Tàu một thời gian và đành phải bỏ luôn cả chức cố vấn tối cao. Hồ thử bằng cách đề nghị Giáp thay mặt “trung ương và Hồ” xin lỗi về “sai lầm trong cải cách ruộng đất” trước dân, với lý do là Giáp có uy tín lớn đối với nhân dân.
Võ nguyên Giáp là thằng rất ngu khi nhận lời đề nghị đó của Hồ. Vì sao? Bởi cả cuộc đời Hồ là hành xử bất nhân vô hậu như đã chứng minh ở trên. Từ việc bán cụ Phan Bội Châu, bôi nhọ cụ Phan Chu Trinh, ám hại Lê hồng Phong, phá cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học, lạnh nhạt với chị ruột, ngủ với Nông thị Xuân có con rồi lại cho giết đi để giữ cái danh “thánh sống” v.v… Hồ còn là kẻ hiếu thắng, ngoại trừ mẫu quốc đỏ ra, hắn tự cho là “thiên hạ anh hùng đệ nhất” dưới trời Việt Nam, và cái gương tày đình là hắn vừa hạ bệ bè lũ Trường Chinh. Cho nên, khi Giáp vui vẻ nhận nhiệm vụ xin lỗi dân thì tính cách con người của Hồ, chắc chắn hắn cho rằng Giáp đã bắt đầu tự phụ là có thể thay được Hồ. Nếu khôn ngoan một chút thì Giáp phải nói đại ý là: “Trong trung ương không một ai có uy tín, công lao bằng Hồ và được dân tin phục như Hồ, nên đề nghị Hồ đích thân thì mới xong việc. Giáp luôn luôn tuân phục lệnh Hồ, nhưng sợ không đủ uy tín nên sợ hỏng việc phó thác của Hồ.”
Và, Giáp đã phải trả một giá rất đắt cho sự ngu muội đó (tuy gần gũi Hồ mà như bao kẻ khác, vẫn mù lòa chẳng nhìn ra được con người thực của Hồ – trách nào những kẻ ở xa, chỉ nghe nói về Hồ, chẳng u mê, sai lệch!). Kể từ đó ngôi sao chiếu mệnh của Giáp bị lu mờ, bị ăn đòn hội chợ của từ Nguyễn chí Thanh đến Lê đức Thọ, cho đến cả Trần Quỳnh, Nguyễn cơ Thạch và cả me-xừ “trí thức không bằng cục cứt” là thạc sỹ sử học tốt nghiệp tại Pháp là Phạm huy Thông!!! Và cả những cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân cho đến anh “đại tá nhẩy sào” cai ác ôn đồn điền cao-su của Tây là thằng cha Lê đức Anh!!! Thật tội nghiệp “đại tướng 4 sao đặt vòng chống thụ thai” của ngụy quân cộng sản!
Nói chung, cái kết thúc của tên Việt gian nào rồi cũng vậy, nhất là loại Việt gian ngu lâu!!!
Vì tính cách đa nghi của kẻ làm gián điệp chuyên nghiệp, lại chuyên nghề lừa đảo nên Hồ luôn luôn “suy bụng ta ra bụng người”, vì thế Hồ vẫn lưu nhiệm phe lũ Trường Chinh ở cái thế mà hắn vẫn khống chế được, nhằm làm đối trọng với phe nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Vì hắn cũng phải đề phóng sự phản trắc của nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Thêm nữa, Hồ còn dùng hai nhóm đối đầu nhau đó trong thủ pháp đi dây giữa Nga-xô và Trung cộng mà hắn không cần phải lộ mặt.
Vài tháng sau khi hạ bệ phe nhóm Trường Chinh, Hồ tuyên bố là quá bận nhiều việc, không thể kiêm nhiệm một lúc nhiều chức vụ được nên Hồ “giới thiệu” (chỉ định một cách tế nhị) Lê Duẩn tạm giữ chức “bí thư thứ nhất” để giúp Hồ điều hành công việc “đảng”. Mục đích của Hồ là tạo điều kiện cho Lê Duẩn và Lê đức Thọ củng cố chỗ đứng trước khi đi vào cuộc “bầu chính thức”. Và, để chắp thêm vây cánh cho Duẩn, cũng như “tỏ thái độ” với Giáp, Hồ cho bổ sung Phạm Hùng (đại tá phụ trách công an miền Nam Việt Nam) vào chính trị bộ và ngồi trên Võ nguyên Giáp.
Tháng 12-1957, Hồ cho triệu tập hội nghị 13 (khóa 2) ra nghị quyết về “nắm vững chuyên chính” và “đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên CNXH”. Như thế, có nghĩa là dùng bạo lực để tước đoạt tài sản toàn dân miền Bắc Việt Nam vào tay đảng mafia đỏ của Hồ. Người dân miền Bắc Việt Nam bị bần cùng hóa nên về thực tế trở thành nô lệ.
Cũng từ cái lệnh “nắm vững chuyên chính” này, Hồ giao cho Trường Chinh và Tố Hữu chỉ đạo việc đàn áp cuộc đấu tranh của văn nghệ sỹ đòi có tự do trong sáng tác. Để che cái lốt độc tài khát máu, bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh dựng ra cái gọi là “vụ án gián điệp Thụy An” để một mặt đàn áp lực lượng văn nghệ sỹ, trí thức từ vùng cộng sản chiếm giữ trước, một mặt tiêu diệt mầm mống tự do dân chủ của lực lượng văn nghệ sỹ ở lại Hà-nội, không di cư vào Nam. Trong số đó có nữ sỹ Thụy An (vợ của ông Đỗ đình Đạo, chỉ huy đệ tam quân thứ lưu động), ông Nguyễn thiếu Bảo – chủ nhà xuất bản Minh Đức, cũng bị kết án 15 năm tù, thực tế quá hạn tù vẫn không được ra tù. Tất nhiên là không chứng cớ mà cũng chẳng cần qua thủ tục tố tụng. Vì, tên Việt gian Hồ chí Minh đã cho vứt cả bộ tư pháp lẫn khoa luật ở trường đại học vào hố xí. Kể từ đó, nhân dân miền Bắc Việt Nam bị cai trị bằng lệnh miệng (một loại khẩu dụ thời phong kiến) là chính. Thí dụ: tên Hoàng văn Hoan ra lệnh miệng thôi mà nhà văn Vũ Trọng Phụng (chết từ 1940) và các tác phẩm của ông bị cho vào sọt rác! Hay như Hồ chỉ tấm ảnh của Hà huy Tập (nguyên tổng bí thư mafia đỏ) nói: “Chú Tập hay phê bình “bác” lắm đấy!” Thế là ảnh của Hà- huy Tập bị lột khỏi cái gọi là “viện bảo tàng cách mạng”!!!
Cho nên sau này có ai nghiên cứu về Hồ và đồng bọn của hắn thì làm sao tìm ra được văn bản về các tội ác của chúng được. Càng để lâu, nhân chứng già chết hết, thế là hết chuyện!!!
Tháng 1-1959, Hồ triệu tập hội nghị trung ương mafia lần 15 (khóa 2), đẻ ra nghị quyết 15 (không phổ biến ra ngoài trung ương) là nghị quyết dùng vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, mở đường Trường-sơn lập thành quân đoàn thường trực với cái tên “cộng trường 59” và đưa lính ngụy cộng sản và vũ khí vào phá hoại mọi mặt đời sống của nhân dân miền Nam Việt Nam, ở thời điểm đó đã đạt được nhiều thành tích cả về trị an, xây dựng kinh tế và ổn định xã hội. Lực lượng nằm vùng bắt đầu hoạt động, vừa chống phá, vừa móc nối những phần tử gọi là “trí thức không bằng cục cứt”; tụi cơ hội “đứng núi này trông núi nọ”; tụi “quáng gà chính trị” trông “gà hóa quốc”, “thả mồi bắt bóng”; tụi “thò lò sáu mặt” chính khách sa-lông; “tụi “sư sãi hổ mang”, “linh mục chuồn chuồn” v.v… để cho ra đời gánh hát chính trị, sau này được đặt tên là “chính phủ cách mạng lâm thời” mà số phận của nó ra sao thì ai cũng đã biết (nhưng nhiều kẻ cũng chưa đúc rút được bài học kinh nghiệm rất đắt giá cho cả dân tộc Việt Nam lẫn bản thân họ).
Cũng thời gian đó, Hồ cho gọi Đỗ Mười ở Hải-phòng về chỉ huy cái gọi là “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Tổ tiên ta đã dạy: “Trông mặt mà bắt hình dong”, cho nên dù không đọc lý lịch thực của Đỗ Mười thì cũng biết đó là tên “bán trời không văn tự”. Tên thật của hắn là Cống, quê ở Yên-sở, huyện Thanh-trì (chỗ bến Phà-đen, Hà-nội đi xuôi một chút), xưa thuộc tỉnh Hà-đông, nay thuộc Hà-nội. Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn, đi các chợ như Bạch-mai, Thường-tín, Phú-xuyên v.v… hoạn lợn, rồi làm lý trưởng. Can tội “lấy tiền thuế đánh bạc” bị cháy túi nên bị thực dân Pháp cho đi tù Sơn-la. Với bản chất và quá khứ đó, Đỗ Mười đúng là mẫu “sinh ra để làm mafia đỏ” và hắn được Tô Hiệu, Nguyễn lương Bằng cho tuyên thệ vào “băng đảng”. Nhiệm vụ lúc đầu thử thách của Đỗ Mười là “đổ cứt của tù”, đáng lẽ mỗi tù nhân luân phiên làm một ngày, nhưng Mười “thích cứt” nên xin nhận làm cả 30 ngày của tháng.
Hồ biết đến Đỗ Mười vì khi tiếp quản Hải-phòng, Mười là bí thư mafia đỏ và Hoàng hữu Nhân là chủ tịch thành phố Hải-phòng. Mười đã có “sáng kiến” dựng ra vụ án “dụ dỗ di cư vào Nam” để ngăn chặn việc di cư vào Nam; cũng như dựng ra vụ án “gián điệp Phan Năm” ở mỏ than Hòn-gai để “trấn áp giai cấp công nhân” không được đi Nam.
Nếu “cải cách ruộng đất” của Hồ làm “long trời lở đất” ở nông thôn Bắc Việt Nam, với tỷ lệ bị bắt giết, tù đày là 5% của dân số nông thôn Bắc Việt Nam, khi đó là 14 triệu (ấy là chưa kể nhiều người sợ quá đã tự tử một mình hoặc đầu độc cả gia đình cùng chết trước khi đội cải cách đến), thì “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ cũng “đảo lộn trời đất, cương thường, đạo đức” ở thành thị miền Bắc Việt nam. Thật đúng là lũ cướp ngày kiểu mafia! Nên nhớ rằng đích thân Hồ kêu gọi con cái đấu tố cha mẹ. Cụ thể là Hồ đã khen con gái một của ông bà chủ hiệu thuốc Hồng Khê (Hà-nội) dám đấu tố cha mẹ. Con ranh con này lập tức được kết nạp thành đoàn viên chính thức của cái gọi là “đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh” (là lực lượng dự bị và là cánh tay mặt của mafia đỏ – như Hồ tuyên bố). Không những thế, nó còn được vào học ở trường đại học y khoa Hà-nội. (Con này sau lấy chồng, đẻ con, lương bác sỹ của mafia đỏ là thứ mạt rệp nên thiếu thốn, chẳng thấy “bác Hồ” của nó đâu, đành quay lại trong vòng tay bao dung và săn sóc của cha mẹ).
Xin lưu ý rằng, kiểu “cải tạo” ở thành thị như thế này, sau khi đã thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, càng chứng minh lập luận của tôi là mọi phong trào của Hồ và tay chân cho đến nay đều là âm mưu tội ác, ngay cả cái gọi là sửa sai hay mở cửa, đổi mới v.v…
Nhiều hình ảnh theo kiểu “bà địa chủ kháng chiến yêu nước” Nguyễn thị Năm lại được Hồ cho tái lập. Thí dụ ông chủ hãng nước mắm Vạn Vân, người làm kinh tài cho Hồ trong những năm chống Pháp, bị tịch thu toàn bộ tài sản. Đến căn nhà riêng ở phố Cao Bá Quát (Hà-nội) cũng bị chiếm dụng một phần, phần còn lại cho cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn (em vợ ông Vạn Vân) và các con của ông Vạn Vân ở, kể cả nhà phụ. Căn phòng của cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn cũng bị trưng dụng, ban ngày làm lớp học nhạc do phòng văn hóa quần chúng thuộc Sở văn hóa Hà-nội quản lý. Con trai út của ông Vạn Vân, một kỹ thuật viên xây dựng trung cấp cũng bị tù ở Quảng-ninh gần chục năm vì “thành phần tư sản” dính dáng đến việc một căn nhà bị đổ (nhưng không chết người), còn những kẻ “thành phần cơ bản” được vô can. Cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn phải xin đổi cho Tổng cục Bưu điện của ngụy quyền Hà-nội hai chiếc xe hơi hiệu Buick và Frégate (của hãng Renault) để lấy chiếc guitare 2 cần và 3 chiếc xe đạp nữ, hiệu Mercier (vì những thứ này mậu dịch ngụy chỉ bán cho cơ quan ngụy quyền cộng sản). Ông Bùi hưng Gia ở Hàng Trống (Hà-nội), người đã ủng hộ 100kg vàng trong “tuần lễ vàng” để Hồ “đút lót” cho Lư Hán và Tiêu Văn (Tàu Tưởng) rút quân Tàu khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng bị cướp nhà và cửa tiệm. Ông Trịnh văn Bô, chủ căn nhà phố Hàng Ngang, đã cho Hồ tá túc để viết “tuyên ngôn độc lập” cũng chung số phận. Ông chủ hãng sơn Tô Châu, cùng ông Vạn Vân làm kinh tài cho Hồ, còn đau hơn nữa vì vừa mất hết tài sản lại vừa mất con. Chẳng là ông ta tin rằng mình là “tư sản dân tộc yêu nước” nên đã khuyên con trai là trung úy Trường (quân lực của Quốc trưởng Bảo Đại) – bạn của tướng Nguyễn bảo Trị (quân lực miền Nam Việt Nam) ở lại Hà-nội. Thế là trung úy Trường bị đi cải tạo (tức tù khổ sai) vì tội danh “ngụy quân”, tận cuối 1973, sau khi hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, mới được về. Nhà tan, cửa nát, trung úy Trường lấy một cô gái lao động, mua một con bò và vợ chồng ngày ngày đi chở gỗ mướn cho các hợp tác xã, sống trong căn nhà lá ở bờ sông Hồng (chỗ viện bảo tàng Louis Finot nhìn ra). Còn, cũng trung úy, nhưng đi Nam thì lên tới cấp tướng, tư lệnh quân khu, như tướng Nguyễn bảo Trị.
Hai số phận cùng một điểm xuất phát có sự khác nhau là do khác nhau về quan điểm: chấp nhận hay phủ nhận chế độ mafia đỏ. Xưa cũng vậy, nay cũng vậy: ở lại Việt Nam là phản động, vượt biên thì thành Việt kiều yêu nước!
Cái “chân lý” giản dị ấy mà đến nay nhiều người vẫn không thể nhớ được!(?) Có người vượt biên chết hết vợ con mà lại thuộc loại mau quên nữa kia!
Đòn độc của thằng “chuyên nghề đổ cứt” Đỗ Mười, thì sau tháng 4/1975, nhân dân miền Nam Việt Nam đã được biết qua các vụ đổi tiền cũng như các chiến dịch X1, X2. Lê Duẩn vẫn dùng lại Đỗ Mười như xưa Hồ đã dùng vậy (chắc theo lời dặn của Hồ).
Thành thị miền Bắc Việt Nam tan hoang có phần còn hơn ở nông thôn qua ngón võ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của Hồ. Người chết chắc cũng khoảng trên dưới chỉ tiêu 5% mà Hồ đưa ra cho việc giết nông dân ở Bắc Việt Nam. Nhiều người chẳng bao giờ buôn bán cũng bị “đấu tố tù đày”, chỉ vì trong những năm 1945-46 đã biểu tình trong hàng ngũ VNQDĐ hay Đại Việt v.v… hoặc trong nhà có ảnh, có sách báo về Nguyễn Thái Học, về Phan Chu Trinh, về sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên (nhóm Trost-kit). Đến mức ai ở Hà-nội xưa đều biết đến “người bán thịt bò khô” ở trước quán Mụ Béo, phải tự tử vì bị truy thuế, tính từ năm 1945!!!(?) Một gia đình ở Cao bá Quát (Hà-nội), cách nhà cố nhạc sỹ Đoàn Chuẩn một nhà, phải tự tử cả gia đình. Đại loại, ít nhất cũng cả triệu gia đình là nạn nhân của Hồ. Cũng tịch thu tài sản, nhà cửa, cũng đưa nhau ra khu phố đấu tố, làm nhục, cũng tử hình (chỉ khác là không bắn tại chỗ) và đuổi đi kinh tế mới. (Sau ngày 30/4/1975, nhiều sỹ quan trong quân lực miền Nam Việt Nam bị đưa lưu đầy ra thượng du miền Bắc Việt Nam vẫn còn gặp những gia đình “bị Hồ đuổi đi phát vãng” như vậy hệt kiểu Stalin với dân Ku-lắc).
Có chút khác với “cải cách ruộng đất” là không có sửa sai. Tại sao? Vì bọn Trường Chinh đã bị hạ bệ rồi và đã có nghị quyết cho phép chuyên chính. Nhưng cái chính yếu là Hồ đã hoàn toàn đảo chánh xong Chính phủ Liên hiệp đa đảng!!! (Cả Quốc hội, cả Chính phủ, cả Hiến pháp 1946 bị xóa sổ.)
Thời kỳ làm “cải cách ruộng đất” Hồ còn che mặt Việt gian. Đến “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” thì ngụy quyền Hồ chí Minh lộ rõ bộ mặt công cụ của mẫu quốc đỏ. Như một đoàn quân thực dân xâm lược đặt chân lên đất thuộc địa, chúng cướp bóc, vơ vét cả người cả của. Hầu hết nhà cửa khang trang, vi-la tốt đẹp, đường phố yên tĩnh đều bị chúng chiếm đoạt, kể cả đồ đạc (y hệt như sau 4/1975 chúng vào miền Nam Việt Nam). Sau những tên to đầu từ Hồ trở xuống thì đến ngụy quân cộng sản. Nhiều người phải “hy sinh” làm vợ ngụy quân để con cái khỏi bị đi phát vãng lên thượng du dưới mỹ tự “kinh tế mới”. Cụ thể, chủ tiệm đặc sản thịt dê P.H. phải gả con gái cho một tên trung tá ngụy quân, bị thương “không còn cái ấy”. Một trung tá ngụy khác cũng cưỡng ép một bà chủ tiệm tơ lụa xưa ở ngã tư Hàng Đào – Lãn Ông. Sau đó hắn còn cưỡng hiếp hai con gái của bà này. Chuyện đưa ra “pháp luật” cũng “huề cả làng”. Ngay một gia đình lính ngụy cộng sản ở Hàng Đào, chung nhà với cố nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng, từng phục vụ ở đệ tam quân khu (do đại tá Nguyễn văn Vận chỉ huy), vì muốn chiếm thêm căn phòng của nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng đã gây chuyện đánh tàn nhẫn cô con gái nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng. Sự việc khiếu nại bị ỉm đi vì như đại diện Viện kiểm sát khu Hoàn Kiếm khi đó, trả lời với phóng viên báo Thủ-đô rằng: “Dù con gái thằng này (tức nhạc sỹ Nguyễn trọng Hưởng) đang là nhạc công của đoàn văn công Quảng-ninh, nhưng nó là “ngụy”, có chuyện gì với “bộ đội ta” thì cũng phải xử theo “tính đảng” – nghĩa là bỏ qua”! Ngay Nguyễn văn Trân, ủy viên ban bí thư mafia đỏ của Hồ và được Hồ chí Minh chỉ định làm “bí thư thứ nhất thành ủy Hà-nội” cũng cặp bồ với cả hai mẹ con nhà tư sản lâu đời ở phố Hàng Bồ (Hà-nội) là P.G.T., nên được giữ nhà cửa mà còn được Trân cấp cho giấy “độc quyền nhuộm”. Thậm chí một gánh hàng đầu đường, bán bánh mì và “cà-phê bít tất” như của vợ chồng “Lâm lác”, ở vĩa hè phố Hàng Vôi, nhờ gả em gái cho tên thuế vụ mafia đỏ mà chuyển sang căn hộ rộng rãi ở Phan Thanh Giản. “Lâm lác” tiếp tục bán bánh mì pa-tê v.v… và cà-phê, nhưng rất nổi tiếng vì là “mạnh thường quân” của nhiều văn nghệ sỹ miền Bắc Việt Nam. Sự trân trọng các tác phẩm và cá nhân các văn nghệ sỹ còn hơn rất nhiều và đáng phục rất nhiều so với cái “Hội nhà văn” của Nguyễn đình Thi và cái ban tuyên huấn của “vè sỹ” Tố Hữu!
Cuộc “cải tạo xã hội” của tập đoàn Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam đã cho bọn chúng nhiều thuận lợi để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam, vì:
1- Hồ đã là chủ nhân tuyệt đối cả con người và tài nguyên thiên nhiên miền Bắc; đã biến tổ chức mafia đỏ của hắn thành một giáo đoàn của một thứ “tà giáo cực đoan khát máu” (y hệt tụi Taliban hiện nay vậy);
2- Hồ đã là “siêu lãnh tụ” của tập đoàn mafia đỏ, y hệt Stalin ở Nga-xô trước đó: lời nói của Hồ là kinh điển, là luật, là “chân lý”. Bất kể lãnh vực nào trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội miền Bắc Việt Nam khi ấy đều sưu tập ý kiến của Hồ làm kim chỉ Nam, từ nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công, hợp tác xã, thương nghiệp, văn hóa giáo dục, quân sự, tôn giáo, giao thông vận tải, thủy lợi, sinh đẻ, gia đình, thiếu nhi, ăn mặc, ma chay cưới hỏi, ngoại giao cho đến cả cứu hỏa, biểu diễn văn nghệ v.v… thậm chí cả “làm hố xí hai ngăn”. Chính vì noi gương đó của Hồ mà Trần hữu Dực, một phó thủ tướng của ngụy quyền Hồ chí Minh luôn luôn tìm dịp phổ biến “sáng kiến” rửa mặt không được vắt khăn mặt, làm thế mau rách; và dùng đồng hồ không cần đeo dây, không cần thiết; hay đi xe đạp không cần “chắn xích, chắn bùn”, lãng phí nhôm để làm việc khác.
Bọn Hồ có những “lệnh miệng” cực tai quái như không được dùng các “sách kinh điển của chủ nghĩa Mác”, của “lãnh tụ” và báo Nhân dân (dù đã cũ) để gói hàng v.v… Nhiều người bị đi cải tạo chỉ vì bị tố giác là dùng báo Nhân dân gói hàng hoặc “chùi đít”!
Chuyện như vậy thì thế hệ con em Việt Nam sau này và quốc tế làm sao tìm ra bằng chứng giấy trắng mực đen, và khi những nhân chứng già chết hết, chỉ còn lại bài viết như của Lữ Phương chẳng hạn, hẳn thế hệ sau chúng ta sẽ bị ảnh hưởng để đi đến kết luận “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”.
Ngay thời phong kiến cũng còn dễ dàng cho nghiên cứu, chứ cái chế độ của ngụy quyền Hồ chí Minh thì không thể căn cứ vào văn bản, sách vở được, kể cả của ngụy quyền sản xuất lẫn những “cây viết chống đối” kiểu Lữ Phương và nhiều nhân vật tên tuổi khác, như xưa kia là những bác sỹ Nguyễn khắc Viện, Trần bạch Đằng, Trần văn Giàu và Trần quốc Vượng!
3- Bằng cái gọi là “đấu tranh giai cấp”, phân chia xã hội thành 13 đẳng cấp; bằng việc “vô sản hóa toàn dân”, Hồ đã làm cho toàn xã hội Việt Nam như một đàn chó đói, chúng giết nhau để sống, chúng giết nhau vì một cục xương thừa Hồ quăng ra; chúng chen lấn phía cửa chuồng chờ Hồ rút then cửa để nhào ra săn đuổi tất cả mọi thứ chúng gặp trên đường, để nếu sống trở về thì hy vọng được Hồ cho khúc xương, cho “liếm bãi nước bọt”, từ đó có thể được ra cái chuồng khác thoải mái hơn tý chút. Còn như, nếu có chết thì cũng là một kiểu được giải thoát khỏi cảnh đói khát, tranh giành trong cũi chật hẹp.
Cả xã hội miền Bắc Việt Nam trong tay Hồ “nhào nặn” trở thành một nhà thương điên vĩ đại. Đi xem phim ảnh, người ta đua nhau ném guốc, ném đá lên màn ảnh khi có nhân vật phản diện xuất hiện. ở sân khấu cũng thế, nhiều diễn viên thủ vai phản diện bị đánh, bị dọa giết. Người ta hoan hô, vỗ tay khi thấy “lãnh tụ” hay “cờ búa liềm”. Kẻ nọ theo rõi người kia, ai chậm chạp hay thiếu nhiệt tình thế là bị lôi ra đấm đá, bị chụp mũ là “phản động lọt lưới” v.v… Điều này có thể Lữ Phương không được chứng kiến hoặc nghe nói nhưng nếu thấy chưa bị “thuyết phục”, thì hãy hỏi lại những người như Trần Độ, Hoàng minh Chính, Lê hồng Hà, Trần quốc Vượng v.v… xem có đúng không.
Trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, binh lính v.v… lại còn có cái trò “viết nhật ký” nhưng lại cố tình để cho mọi người có thể đọc được (nhất là cho các cấp ủy mafia đỏ ở cơ sở) những “tâm sự”, những ước vọng “được chết cho bác Hồ”, “được làm bất kể việc gì làm bác vui”. Từ cấp mẫu giáo cho đến lớn; từ nhà trường cho đến nhà máy, nông trường, công trường, các công sở v.v… đều có cái gọi là “bích báo” (báo tường), đua nhau làm thơ ca ngợi “bác Hồ”, gửi quyết tâm thư lên “bác Hồ” xin được chết cho “sự nghiệp của bác Hồ vĩ đại”!
Đối với thế hệ trẻ, luôn luôn được nhồi sọ: “Cha mẹ sinh ra ta, nhưng “bác và đảng” cho ta cuộc sống, cho ta nên người”, đủ thứ bà rằn loại như vậy.
Với cái khí thế của các hồn ma trong tay như thế, tên phù thủy Hồ chí Minh công khai cả trong và ngoài nước hành động “bành trướng chiến lược của mafia đỏ” núp dưới chiêu bài ủng hộ và có nghĩa vụ giúp nhân dân miền Nam Việt Nam giải phóng khỏi sự cùm kẹp của “Mỹ-Ngụy”!!!(?)
Như thế có nghĩa là, bằng “chuyên chính” và “tiến lên CNXH”, Hồ đã thâu gọn toàn bộ tài sản của xã hội Bắc Việt Nam khi ấy, đã dùng “sợi dây đỏ CNXH” cột chặt cái bao tử của toàn dân miền Bắc Việt Nam, cho sống, cho chết, cho điên, cho khóc, cho cười tùy ý, nghĩa là không chỉ làm chủ cái thân xác mà cả linh hồn, sau khi đã thoái hóa tất cả thành trí nô, nông nô, công nô và binh nô.
Một số phóng viên nước ngoài, xanh cũng có mà đỏ cũng có, thường khen “tinh thần chiến đấu” của quân dân miền Bắc Việt Nam. Họ có biết đâu rằng những con người trông bề ngoài bình thường, giản dị, chân chất ấy đều đã bị tập đoàn mafia đỏ mà kẻ cầm đầu là Hồ chí Minh đã dùng phương pháp Paplov để thuần hóa, kích thích cái thú tính bản năng, không còn là người, không còn “bộ óc bình thường” nữa. Tất cả là lũ điên.
Tào Tháo trong chuyện Tam Quốc của Tàu chỉ làm được cho mỗi mình Bàng Đức thành điên khùng mà quyết tử chiến với Quan Vân Trường. Còn Hồ và cái tổ chức Việt gian công dân búa liềm của hắn đã sản sinh “hàng triệu tên điên quyết tử” cho sự nghiệp Việt gian của Hồ. óc họ hoàn toàn thành bã đậu, không hề tìm hiểu xem cái “sự nghiệp vĩ đại” của Hồ là gì? Có lợi cho ai, hại cho ai? Sai, đúng thế nào? Cho đến tận 2001 này, nhiều người đã thấy được cái “bánh vẽ XHCN”, nuốt không dzô mà vẫn không dám oẹ ra, không dám mở to mắt, cố dùng ít tế bào óc được phục hồi để nhìn nhận ai là thủ phạm sản xuất bánh vẽ. Hơn nửa thế kỷ thực tế máu và nước mắt vẫn còn thấy là “hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục”. Quả là ngu quá lâu!
Năm 1958, Hồ bán nước, dâng Hoàng-sa, Trường-sa cho Trung cộng thì vẫn là “anh hùng giải phóng dân tộc”. Còn năm 2000-2001 này, lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh cũng vừa bán đất, biển cho Trung cộng thì sao lại nhìn ra ngay?!!! Chúng đi theo con đường của “Hồ” đấy!!!
Chuẩn bị xong xuôi hết, tháng 8-1960, Hồ cho tổ chức cái gọi là đại hội mafia đỏ lần thứ ba. Nghị quyết đại hội của chúng chủ yếu là:
- nắm vững chuyên chính;
- xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;
- và thống nhất miền Nam Việt Nam bằng hòa bình. Ngay nội bộ mafia đỏ với nhau chúng cũng giấu cái nghị quyết vũ trang xâm lược, NQ/15 tháng 1-1959, và để đánh lừa quốc tế.
Nhân sự được Hồ bố trí như sau:
- Chủ tịch đảng: Hồ chí Minh, kiêm ủy viên chính trị bộ
- Bí thư thứ nhất: Lê Duẩn, ủy viên chính trị bộ
Các ủy viên chính trị bộ khác theo thứ tự bậc thang quan lại đỏ:
- Trường Chinh: chủ tịch quốc hội ngụy quyền Hà-nội
- Phạm văn Đồng: thủ tướng ngụy quyền Hà-nội
- Phạm Hùng: phó thủ tướng thứ nhất ngụy quyền Hà-nội
- Võ nguyên Giáp: phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng ngụy quyền
- Nguyễn chí Thanh: phó bí thư quân ủy mafia đỏ
- Lê đức Thọ; trưởng ban tổ chức trung ương mafia đỏ
- Nguyễn duy Trinh: phó thủ tướng
- Lê thanh Nghị: phó thủ tướng
- Hoàng văn Hoan: phó chủ tịch quốc hội ngụy, đại sứ tại Trung cộng
Và hai dự khuyết bộ chính trị là:
- Văn tiến Dũng: tổng tham mưu trưởng ngụy quân cộng sản
- Trấn quốc Hoàn: bộ trưởng công an ngụy quyền Hà-nội.
Hồ nắm quyền tuyệt đối vì hắn cùng lúc giữ các chức: chủ tịch đảng, ủy viên chính trị bộ; chủ tịch hội đồng quốc phòng; chủ tịch nước.
Còn Lê Duẩn được thực thụ là “bí thư thứ nhất” (chứ không phải tổng bí thư; phải đến đại hội lần 4, sau khi xâm lược miền Nam xong, Lê Duẩn mới nhận được cái danh xưng “tổng bí thư”) kiêm bí thư quân ủy (Giáp tụt xuống phó bí thư).
Chưa cho Lê Duẩn cái danh xưng “tổng bí thư” là Hồ chưa muốn cho toàn đảng mafia đỏ của Hồ thấy rằng Lê Duẩn đã ở vị trí lấn át. Hồ cần Duẩn phải cố gắng hơn nữa, chủ yếu là tổ chức vũ trang xâm lược bằng được miền Nam cho Hồ. Chính vì thế, mà Lê Duẩn “đã liều mạng” vào Nam để chuẩn bị cho gánh cải lương chính trị của luật sư Nguyễn hữu Thọ và chút xíu đi chín suối hoặc dzô nhà tù của cụ Ngô Đình Diệm (tháng 12-1960).
Tin dưới đây tôi chưa có điều kiện và cũng không thể kiểm chứng được, nhưng vẫn nêu ra để biết đâu sau này có ai đó tìm ra manh mối chăng. Đó là, sau khi được “chính thức hóa cái ngôi bí thư thứ nhất, qua cái gọi là đại hội 3 của mafia đỏ”, Lê Duẩn dựa vào sự bố trí của tụi còn nằm vùng ở miền Nam (trung ương cục) và sự đưa tin tình báo của nội gián Phạm ngọc Thảo (khi ấy làm tỉnh trưởng của Bến-tre) nên đã về “vùng 4“ để họp. Ai dè quân đội của cụ Ngô Đình Diệm đã bắt được Lê Duẩn cùng một số nhân sự của mafia đỏ nằm vùng ở miền Nam Việt Nam. Nhưng không biết vì sao ngay sau đó tất cả đều được tha. Thế là Hồ đang buồn, Trường Chinh đang “mở cờ trong bụng” cũng thay đổi ngược luôn. (Một người cực thân của Trường Chinh lộ tin này).
Tháng 11-1960, Hồ dắt Lê Duẩn đi dự cuộc họp của 81 đảng mafia đỏ và cùng ký vào nghị quyết ủng hộ đường lối của Nga-xô. Cho dù lần này thần tượng của Hồ là Stalin đã bị đổ, và Nga-xô đang muốn “thi đua hòa bình” là đường lối trái với “đường lối khát máu” của Hồ và Trung cộng, nhưng Hồ lúc nào cũng “tuân theo mẫu quốc”, vì thế nên vẫn ký. Hồ vẫn hy vọng phe Stalin sẽ nắm lại quyền lực ở Nga-xô. Mâu thuẫn giữa “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” đẩy Hồ vào một thế phải ứng xử thật tế nhị. Chính vì bị ngộ độc bởi những “huyền thoại” do Hồ tự tạo ra xung quanh cuộc đời của hắn nên người ta không dám nhìn vào con người thật của Hồ để lý giải đường đi, nước bước của Hồ giữa hai thế lực “Nga-xô” và “Trung cộng”.
Bài 10
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Vì thế cho nên cái mà tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh gọi là “Vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp” không phải như sau này bị một số người diễn dịch thành “những người đòi hỏi dân chủ”.
Xin nhớ rằng, cái thời của những năm 60 đó, ngay những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản còn mơ hồ về khái niệm dân chủ. Còn những kẻ đã ở trong tổ chức mafia đỏ thì chúng chỉ hiểu và tranh nhau làm chủ dân mà thôi. Có kẻ thích mô hình “Nga-xô”, có kẻ muốn mô hình “Trung cộng”. Thích mô hình nào thì tìm chỗ dựa ở quan thầy đó. Dù là mô hình Nga-xô hay mô hình Trung cộng, thì cũng rất xa lạ với dân chủ hay đúng hơn là tuyệt đối không có dân chủ!
Và, ngay thời kỳ đó mà xét thì chỗ họ đã đứng và đang đứng vẫn là chống lại dân chủ. Và, nếu như họ có đưa ra yêu sách dân chủ thì cũng chỉ là cái cớ lật nhau, dành chỗ đứng cao ráo, béo bở hơn trong thang quan lại thực dân đỏ. Có vậy thôi!!!
Việc này được nêu ra là nhằm không muốn thế hệ con cháu chúng ta, cũng như một bộ phận không nhỏ nhân dân Việt Nam trong nước và ngoài nước lại bị quả lừa không cần thiết. Xin nhấn mạnh rằng mấy nhân vật tìm chỗ dựa ở Nga-xô khi đó để hy vọng ở thang bậc làm chủ dân cao hơn chứ không bao giờ bọn họ có ý niệm về xã hội công dân hoặc chế độ dân chủ đa nguyên như hiện nay. Bọn họ đều đổ nhiều công sức tâm huyết cho cái chế độ mafia đỏ đó và phần lớn đều vấy máu người Việt Nam nói chung, người Việt Nam yêu nước và yêu dân chủ nói riêng. Nhưng khi chia phần họ bị thiệt thòi nên bọn họ tìm chỗ dựa Nga-xô vì quyền lợi bản thân chứ không vì dân.
Cần phải minh bạch chuyện này để nhân dân Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai khỏi mang ơn những vị trời ơi đất hỡi vì bị thiếu thông tin.
Sau 1954, nhiều nhân vật mafia đỏ ở miền Nam ra Hà-nội, tưởng rằng với thành tích tiêu diệt những người không chấp nhận chế độ cộng sản (tức thực dân đỏ), đàn áp và tàn sát các giáo phái v.v… chắc sẽ được những địa vị quan trọng. Đó là: Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Dương bạch Mai v.v… Vì Dương bạch Mai tuy được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ nhưng chỉ được phân công là ủy viên thường vụ của quốc hội ngụy quyền Hà-nội, mà trong đó đã có Trường Chinh, Hoàng văn Hoan là các ủy viên chính trị bộ, lại thêm những bộ mặt có nanh có mỏ như Hoàng quốc Việt, Chu văn Tấn, Nguyễn thị Thập v.v… Mà, tức nhất là ngay Tôn quang Phiệt (dự khuyết trung ương mafia đỏ thôi) cũng ngồi cao hơn Dương bạch Mai một bậc, vì Phiệt là tổng thư ký của ủy ban thường vụ quốc hội mafia đỏ. Cho nên Dương bạch Mai, với tư cách chủ tịch hội Việt-Xô, hết sức phát triển hội cũng như kết thân với Serbakov, đại sứ Nga-xô khi ấy. Qua sinh hoạt hội Việt-Xô, Mai tụ tập được một số “bất mãn” vì thấy hạ phong so với những người “thành tích” mafia đỏ “còn kém mình”, và số khác bị kỷ luật, kiểu như Ung văn Khiêm, vì chuyện ồn ào đánh ghen ở đường Trần Quốc Toản (Hà-nội) cũng như đang giữ ghế bộ trưởng ngoại giao mà lúc quá chén lại bốc đồng khen lập luận đảng toàn dân của Khrút-xốp. Hay như Bùi công Trừng, một người tự coi là nhà lý luận mác-xít, là trí thức có hạng, vậy mà chỉ là ủy viên dự khuyết mafia đỏ kiêm phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước (ngụy quyền), thua xa lắc so với Tố Hữu. Cho nên Bùi cộng Trừng đã viết trên báo Nhân dân (Hà-nội) ca ngợi rằng chủ nghĩa Mác là một khoa học nên là người có học mới hiểu chủ nghĩa Mác. Và, thế là Lê Duẩn viết bài đập lại (cũng trên báo Nhân dân) ý rằng phải cần có lập trường vô sản thì mới hiểu nổi chủ nghĩa Mác!!! Bùi công Trừng bị điểm mặt từ đó.
Đại loại mọi việc như thế, chứ đâu nghĩ gì dân chủ!!!
Tụi mafia đỏ tự đội đảng mafia của chúng là đỉnh cao của trí tuệ. Mỗi tên mafia đỏ cũng đều tự tôn mình thành “siêu công dân”. Chính sự tự bơm đó đã làm chúng không biết chúng đang là “con cóc hay con bò” của Lafontaine.
Thằng nào viết sách cũng khuếch đại cái tôi lên vạn lần.
Bởi không đánh giá đúng bản thân nên bọn chúng rất chủ quan. Lại thêm cái máu Việt gian đậm màu thêm cùng với thời gian hoạt động cho mafia đỏ, nên chúng miệng nói “nhân dân là vô tận v.v…” nhưng chúng chỉ đi tìm chỗ dựa ở ngoại bang, vì chỉ có cấu kết với ngoại bang thì mới dễ đạt mục đích làm chủ của dân.
Thiếu tướng Đặng kim Giang (xuất thân cốt cán hệt như tướng Chu huy Mân, chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội trước cả Lê đức Anh) cùng được phong tướng với những tướng ngụy khác như Đỗ Mười, Phan trọng Tuệ, Nguyễn thanh Bình, Lê hiến Mai v.v… Trong khi Đỗ Mười thì leo lên tới phó thủ tướng; Phan trọng Tuệ cũng phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giao thông và bưu điện; Nguyễn thanh Bình là bộ trưởng bộ nội thương; Lê hiến Mai là phó chủ nhiệm tổng cục chính trị, núp dưới bí danh Dương quốc Chính còn là bộ trưởng đại diện chính phủ ở khu bốn. Ngay các đại tá thôi, như Hà kế Tấn cũng là bộ trưởng thủy lợi; đại tá Đàm quang Trung, tư lệnh khu bốn; đại tá Phùng thế Tài, phó tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh phòng không và không quân; đại tá Lê Hiền, tư lệnh bộ tư lệnh thủ đô Hà-nội; đại tá Vũ văn Cẩn, bộ trưởng bộ y tế. Và, cù lần như đại tá Nguyễn văn Quặn cũng giữ ghế phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao (trung tướng Hoàng văn Thái là chủ nhiệm). Thế mà tướng Đặng kim Giang chỉ được cái ghế thứ trưởng bộ nông trường!!!
Ông Vũ đình Huỳnh, thân phụ nhà văn Vũ thư Hiên, từ một người công giáo toàn tòng đã tham gia cộng sản từ rất sớm, khi bị giải lên nhà tù Sơn-la, cùng chung một còng với tên lang băm Xuân Thủy (sau 1954, Thủy được Hồ cho chức bí thư trung ương mafia đỏ). Năm 1945, khi Hồ được Võ nguyên Giáp mang trung đội vũ trang hộ tống về Hà-nội, Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ) được cử làm lái xe hơi kiêm đầu bếp của Hồ thì ông Vũ đình Huỳnh được cử là một trong những thư ký riêng của Hồ (vì Hồ có nhiều thư ký lắm kể cả Phạm huy Thông, khi Hồ qua Pháp mới tuyển dụng). Những người không u mê thì nghĩ rằng Hồ chọn một người công giáo toàn tòng làm thư ký riêng, nghĩa là loại tin cẩn, chỉ là một thủ đoạn chính trị, nhằm yên lòng giáo dân và đặc biệt để Hồ dễ ăn nói, gặp gỡ một nhân vật mà Hồ rất e ngại, kiêng nể là Đức cha Lê hữu Từ. Khi thủ đoạn đó xong, lên Việt-Bắc ông Vũ đình Huỳnh chỉ giữ chức vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao cho đến ngày bị bắt. Hàm vụ trưởng đâu phải là một chức to tát gì đâu, cụ thể là chưa có tiêu chuẩn mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản, mà chỉ mua ở cửa hàng Vân Hồ (nơi vợ tướng Trần Độ làm cửa hàng trưởng), hoặc ở Nhà Thờ, hoặc ở Nguyễn cảnh Chân, là 3 cửa hàng dành cho cán bộ mafia đỏ từ bậc chuyên viên 2, bậc thiếu tá, trung tá của lực lượng vũ trang và các cục, vụ trưởng. Trong khi đó, “lái xe” Nguyễn lương Bằng vừa được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ lại còn kiêm trưởng ban kiểm tra trung ương mafia đỏ, rồi còn lên phó chủ tịch nhà nước ngụy quyền Hà-nội. Và, ngay Phạm huy Thông, dù can tội tặng tướng Võ nguyên Giáp một cặp sừng dê mà cũng là viện trưởng viện khảo cổ (cấp viện trưởng là ngang thứ trưởng) và có thẻ mua hàng ở Tôn Đản! Cho nên nói cho chính xác thì ông Vũ đình Huỳnh chỉ là một người tham gia tổ chức mafia đỏ của Hồ ở bậc cố cựu chứ chưa bao giờ được giữ chức vụ gì quan trọng cả, còn thua xa tên Tạ quang Chiến là lái xe kiêm dắt gái cho Hồ, sau ra làm tổng cục trưởng tổng cục thể dục thể thao.
Qua cái việc đề bạt nhân sự này, một lần nữa là bằng chứng cụ thể rằng Hồ luôn luôn là kẻ nắm quyền thực sự, chẳng ai khống chế được hắn.
Như đã trình bày ở trên, rằng cái hội Việt-Xô của Dương bạch Mai tỏa rễ rộng khắp mọi cơ sở hoạt động của xã hội miền Bắc khi đó, cho nên thành phần chống nghị quyết 9 cũng đa dạng, trong đó có thể có nhiều người chỉ muốn chống lại việc xích lại gần Ba Tàu cộng chứ không nghĩ đến hoặc không dám nghĩ đến việc chống Hồ. Nhưng, cái xuất thân của Dương bạch Mai cũng như quá trình hoạt động cho mafia đỏ với nhiều thành tích, rõ ràng có sáng giá hơn bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng v.v…. đặc biệt là “thành tích” lừa đảo trong vụ tháng 8 năm 1945, cướp công của các tổ chức, nhân sỹ yêu nước, ở miền Nam Việt Nam, cũng như nhanh tay tiêu diệt các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo. Và, tham vọng lớn của Dương bạch Mai, nên hắn muốn thừa gió bẻ măng định làm đảo chính cung đình giống kiểu Khrút-xốp ở Nga-xô. Và, Dương bạch Mai đã tìm chỗ dựa Nga-xô, trực tiếp qua tên Serbakov.
Vì quá ham địa vị, lại tự hào về kiến thức và thành tích, Dương bạch Mai đã mờ mắt không nhận ra được vị trí quân cờ Hồ chí Minh trong thế chiến lược của Nga-xô. Vì thế mà Hồ được thông báo ngầm toàn bộ kế hoạch của Dương bạch Mai, trong đó sẽ lợi dụng họp quốc hội ngụy quyền Hà-nội, để làm cái việc như Khrút-xốp đã làm trong đại hội 20 của Nga-xô. Nghĩa là Dương bạch Mai sẽ tố giác “tệ sùng bái cá nhân Hồ” cũng như các tội ác của Hồ trong “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “nhân văn – giai phẩm”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” v.v…
Và, ngày 4-4-1964, tại cuộc họp quốc hội ngụy quyền Hồ chí Minh ở Ba-đình (Hà-nội), theo lịch trình thì sau giải lao giữa giờ là lời phát biểu của ủy viên thường vụ quốc hội Dương bạch Mai. Nhưng chuyện đó đã và sẽ chẳng bao giờ xảy ra, vì đang giải lao thì “chú” Dương bạch Mai được “bác” Hồ niềm nở mời uống ly nước và vài câu chuyện mưa nắng v.v… Rồi “chú” Dương bạch Mai đã gục chết trên ghế “đại biểu quốc hội”, nghe đoán là “chắc” bị ngộp tim, nhưng có mặt ở đó một loạt đại biểu có nghề bác sỹ như bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng, giáo sư bác sỹ Trần hữu Tước, bác sỹ Nguyễn tấn Di Trọng v.v…, nhưng chẳng ai muốn “bỏ nhiệm vụ đại biểu quốc hội” để làm “lương y như từ mẫu”. Và, sau đó là các đòn linh hoạt của me-xừ “sáu búa” Lê đức Thọ, người được Hồ giao cái việc “trông nom lũ gọi là cán bộ”! Mọi chuyện bắt bớ, tra hỏi, bỏ tù, đã có nhiều vị viết sách kể lể, hư cấu quá đầy đủ, cho đến tận bây giờ thì từ cái nội dung “chống nghị quyết 9” (tức thân Trung cộng), đã đổi màu thành đấu tranh đòi dân chủ!!! Sợ không, vì cái thời điểm đó ngay tại mẫu quốc đỏ là Nga-xô, sau cái gọi là đại hội 20 của Nga-xô, thì dân chủ vẫn là hai tiếng cấm kỵ, vậy mà mấy anh dân thuộc địa đỏ dám nói đến, trách nào chú Cuội cứ ở lỳ trên cung trăng, sợ xuống Bắc Việt Nam không có đất sống!!!
Chỉ có miền Nam Việt Nam, trước tháng 4-1975, mới có mầm mống và hơi hướng dân chủ mà thôi. Và vì thế, khi ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lăng miền Nam xong, nụ cười chiến thắng trên môi chưa kịp tắt thì đã lung túng với cái tinh thần dân chủ của miền Nam Việt Nam, tuy còn non trẻ. Để rồi, sau này, khi những người miền Nam Việt Nam kiến lập được một cộng đồng người Việt hùng hậu ở nước ngoài, thì mới bắt đầu gọi là có “đấu tranh đòi dân chủ”, vì có chỗ dựa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Những người như ông Nguyễn Hộ, nhà thơ Bùi minh Quốc, nhà văn Dương thu Hương, Bảo Ninh, các linh mục Chân Tín, Nguyễn ngọc Lan, rồi bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… mới không bị ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội nghiền nát thành “tương cự đà”. Và, rồi cũng từ lúc ấy, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà tập thơ “Hoa địa ngục” của Nguyễn chí Thiện cho đến “Thiên đường mù”, “Bên kia bờ ảo vọng” của Dương thu Hương; “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh; “Gửi mẹ và quốc hội” của Nguyễn văn Trấn, Đoàn viết Hoạt v.v… và v.v… mới được thế giới biết đến để cho cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Việt Nam bén rễ, nẩy lộc như hiện nay, đang được biết bao tầng lớp người dân Việt Nam tham gia ngày càng ngoan cường. Cuộc đấu tranh đó là của người dân chứ không phải là của những người đương chức đương quyền dù nhỏ hay lớn trong bộ máy quan lại của ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội.
Cũng chính cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã điểm trúng huyệt “bách hội” của tập đoàn mafia đỏ Hà-nội. Đó là bằng công trình nghiên cứu khoa học của giáo sư Lê Hữu Mục, cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã vạch mặt tên đạo văn Hồ chí Minh, khiến mấy me-xừ quan liêu ở cơ quan UNESCO phải rút lại cái danh hiệu “danh nhân văn hóa thế giới”, chút xíu vì lẩm cẩm đã tặng cho Hồ.
Nhờ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cái cộng đồng được hình thành vì bị mafia đỏ Hà-nội vũ trang xâm lược, tàn sát nên phải đi lưu vong, trong đó công lao góp cho mafia đỏ gieo rắc tai họa cho cộng đồng này không phải là ít, như ông Trần Độ chẳng hạn, nhưng mọi người vẫn đánh giá đứng mức những gì ông đang đóng góp hiện nay, khi ông bị “cách quan” để làm dân và đang hiểu phần nào thân phận người dân dưới sự cai trị của mafia đỏ (bởi ông Trần Độ vẫn chưa thấy cái sai trong việc theo lệnh Hồ, xâm lăng và tàn sát nhân dân miền Nam Việt Nam).
Đối với các ông như Hoàng minh Chính, Lê Giản, Hoàng hữu Nhân, Lê hồng Hà v.v…, cũng phải sau tháng 4-1975 nhiều năm, các ông đó mới thấy nhu cầu dân chủ cho đất nước, nghĩa là khi đã bị làm dân; còn nhận ra muộn hơn nhà văn Dương thu Hương, vợ chồng Lưu quang Vũ, nhà thơ Bùi minh Quốc v.v… và không sâu sắc như ông Nguyễn Hộ và Hà sỹ Phu (Nguyễn xuân Tụ). Còn một số khác thì cho đến chết vẫn nặng mùi cơ hội như bác sỹ Nguyễn khắc Viện hay giáo sư Trần đức Thảo, nhà thơ Vũ Cận v.v…
Vì lòng nhân ái, nhưng chủ yếu là thiếu thông tin, nên nhân dân Việt Nam cả trong và ngoài nước dễ bị lầm – nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại – nên cần cân nhắc cẩn thận khi đề cập đến một ai đó. Nghe nhưng phải kiểm tra, phải phân tích, đối chiếu. Tổ tiên ta đã căn dặn: “Yêu củ ấu cũng tròn, ghét bồ hòn cũng ngọt” là vậy, cũng như “nói vậy mà không phải vậy”! Không quên công lao những người đã và đang đấu tranh với ngụy quyền Hồ chí Minh, nhưng không thể không xem xét động cơ đấu tranh của họ là vì dân hay vì mình!
Dù là vì dân hay vì mình mà đấu tranh chống mafia đỏ Việt Nam hiện nay đều đáng được ủng hộ mọi mặt, nhưng phải xem xét động cơ đấu tranh thì mới khỏi bị lặp lại cảnh “tránh vỏ dưa dẫm phải vỏ dừa” (như chuyện ủng hộ việc chống thực dân Pháp trước đây vậy).
Như thế sẽ có thể có câu hỏi đặt ra là: Những ý kiến của ông Nguyễn trung Thành về vấn đề này là thế nào?
Xin thưa rằng, ông Nguyễn trung Thành, trưởng ban bảo vệ đảng, từng là một cán bộ có giá dưới quyền Lê đức Thọ, và được giao giải quyết vụ này. Mấy năm gần đây, ông Nguyễn trung Thành có ý kiến đề nghị minh oan cho nhóm “chống nghị quyết 9” rằng họ vô tội, không có chuyện phản đảng và cũng không có chuyện làm gián điệp cho nước ngoài như cáo buộc trước kia. Ông Nguyễn trung Thành phải công khai hóa chuyện này vì cả mấy đời “tổng bí thư” đều không giải quyết. Không những thế, ông còn bị Đỗ Mười (từng bị điên) gọi ông lên nhắc khéo rằng ông đã đến tuổi “về hưu”. Nghĩa là chưa tiện nói hai tiếng “lẩm cẩm”, vì Mười còn hơn tuổi ông Nguyễn trung Thành.
Tại sao những người nắm quyền lực chính của mafia đỏ cứ lúng túng về chuyện này, trong lúc họ dám “chê trách” Lê Duẩn và Lê đức Thọ ở nhiều vụ việc khác, kể cả việc “cho Hồ ra rìa” như Lữ Phương trích ý của Vũ Kỳ – thư ký của Hồ – viết trên tờ Văn nghệ, hay “sửa di chúc của Hồ” và thay đổi cả ngày giờ ngủm củ tỏi của Hồ.
Chẳng có gì khó hiểu cả, vì tất cả các vụ việc đó đều do lệnh miệng của Hồ, nghĩa là Hồ bảo Lê Duẩn và Lê đức Thọ trừng phạt những ai dám đòi khôn hơn Hồ cản trở nước cờ đu dây của Hồ giữa Nga-xô và Trung cộng, đặc biệt dám đấu Hồ. Vì thế mà từ Trường Chinh cho đến Nguyễn văn Linh, rồi Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, và Nông đức Mạnh, đứa nào cũng cứ như “chó ăn vụng bột” mở mỏ nói không được. Vì nếu giải quyết vụ “án xét lại” có nghĩa là phải kết án Hồ, tức là tự tay đập nát cái thần tượng mà chúng đang núp sau để lừa thiên hạ.
Việc đơn giản như vậy mà các vị “xét lại” không nhìn ra vì hai tay các vị dù nhiều dù ít đã nhúng chàm “mafia đỏ”, nên có dám mở mắt để nhìn vào cái bản mặt Việt gian của Hồ chí Minh đâu, cho nên cứ chạy theo me-xừ “kiến đi kiện củ khoai”. Điều này càng chứng minh thêm sự tai hại ghê gớm của việc nhiều “ngòi bút chống đối” hiện nay ở trong nước vẫn u mê dựng ra “chủ nghĩa Hồ chí Minh” để chống tập đoàn đầu lãnh mafia đỏ hiện nay mà chúng lại chính là sản phẩm đúng nhãn họ Hồ.
Bất cứ ai, đã nhiễm virus HIV mafia đỏ dương tính, thì dù có cả trăm bồ kiến thức như Trần văn Giàu, Dương bạch Mai, Bùi công Trừng, bác sỹ Nguyễn khắc Viện, thạc sỹ Trần đức Thảo v.v… hay cả ông Hoàng minh Chính, ông Trần Độ, ông Trần Khuê v.v… cũng chỉ nhìn được “một nửa sự thật”, hệt như mấy vị đã thoát hiểm ra nước ngoài, dù viết cả gần chục cuốn sách hay cả ngàn trang mà nhiều vấn đề vẫn chỉ càng thêm mơ hồ, thêm khó hiểu. Ngay như Lữ Phương, một cây bút được cả trong và ngoài nước cho là “có trình độ lý luận” mà cũng có lối giải thích rất ấu trĩ. Lữ Phương nâng Hồ lên “… là nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20”. Nào là Hồ đã: “Tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ, chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập, thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”. Nghĩa là Lữ Phương thừa nhận:
1- Hồ là người tổ chức cuộc chiến đấu chống cả thực dân Pháp lẫn cả Mỹ (theo lối nói của mafia đỏ gọi Mỹ là thực dân mới);
2- Hồ đã lãnh đạo để “hoàn thành độc lập, thống nhất” tức là sau khi Hồ chết (9-1969), cái gọi là “độc lập, thống nhất” được thực hiện vào 30-4-1975 cũng là công lao của Hồ, có nghĩa là Hồ chết rồi, nhưng bọn Lê Duẩn vẫn làm theo lệnh của Hồ từ trước đó;
3- Hồ cũng là người “thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam”. Như thế có nghĩa là theo ý Lữ Phương thì không chỉ với phía Bắc Việt Nam mà ngay miền Nam Việt Nam bị khoác cho cái gông “chủ nghĩa xã hội hiện thực” cũng là công của Hồ.
Vơ tất cả mọi công lao cho Hồ, vinh danh Hồ đến tột cùng như thế mà Lữ Phương lại dám “đau xót cho Hồ là bị cho ra rìa”. Chỉ tính từ nghị quyết 9, có nghĩa từ năm 1963, theo Lữ Phương, Hồ đã bị “cho ra rìa” rồi thì làm sao Hồ có thể tổ chức chiến đấu chống Mỹ mà hoàn thành độc lập, thống nhất để thiết lập chế độ XHCN hiện thực ở Việt Nam là chuyện của 4-1975!!! Học hành lý luận kiểu đó, trách nào mà chẳng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” để đến nỗi “canh bạc chính trị” trốn ra bưng năm 1968 (là năm ngụy quân Hồ chí Minh gây ra vụ thảm sát ở Huế) vẫn đánh cây bài “chính phủ lâm thời”, đến nỗi cháy túi, mà bây giờ vẫn còn chưa tỉnh!!!
Thôi thì cất bút cho rồi
Càng lý luận, càng lòi đuôi: nịnh thần!!!”
Cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” của những năm 1960 không có tiếng vang trong nhân dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, vì nó chỉ là phản ứng trong nội bộ mafia đỏ của một thiểu số thân Nga-xô, hoàn toàn không phải là phong trào của nhân dân và khởi xuất từ nguyện vọng của nhân dân. Cho nên không được đa số nhân dân là nông dân biết đến và ủng hộ, vì thế nó như hoa phù dung, “sớm nở tối tàn”.
Người trung thực phê phán vụ bắt bớ này là ông Nguyễn trung Thành. Việc làm của ông thật đáng kính trọng. Đúng là gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhưng, cần phải nhớ rằng sự trung thực của ông Nguyễn trung Thành đã giúp vén bức màn về “vụ án xét lại chống đảng”. Rằng: “Không có bằng chứng đây là một tổ chức, có điều lệ, cương lĩnh và v.v…” Chính nhận xét đó của ông Nguyễn trung Thành đã chứng minh rằng nhóm bị kết án trong “vụ xét lại chống đảng” là một bộ phận quan trọng đầu não của hội Việt-Xô. Ông Nguyễn trung Thành không nhìn ra được rằng hội Việt-Xô là tổ chức của họ và điều lệ của hội Việt-Xô là cương lĩnh của họ. Bởi vì hành động phản đối nghị quyết 9, là nghị quyết thân Trung cộng, có nghĩa là họ bảo vệ Nga-xô như mục đích việc hình thành hội Việt-Xô cũng như điều lệ của hội Việt-Xô vậy. Còn cái gọi là “làm gián điệp cho nước ngoài” là ý nói rằng một số trong bọn họ như Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Nguyễn văn Vịnh, Bùi công Trừng, Lê Liêm v.v… dự họp trung ương mafia đỏ nên biết những chuyện như Trường Chinh, thay mặt bộ chính trị, tuyên bố rằng: “Đường lối đối nội và đối ngoại của đảng ta (tức mafia đỏ Việt Nam) hoàn toàn thống nhất với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung quốc”. Cũng như việc bọn Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh và Hoàng văn Hoan qua Trung cộng bàn về việc cho ra đời cái gọi là “quốc tế mới (Mao-ít)”, tất cả đều báo cáo lại cho viên tình báo Serbakov, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nga-xô tại Hà-nội lúc đó. Hơn nữa, cái tội danh “gián điệp” là bổn cũ của Hồ và đồng bọn, cho đến nay là họ Nông, dùng để gán tội cho những ai bất đồng với chúng.
Đứng ở góc độ của người dân miền Bắc Việt Nam khi ấy, thì cuộc đấu đá giữa “xét lại” (thân Nga-xô) và “giáo điều” (thân Trung cộng) đúng như được phản ảnh qua bức hí họa trên tờ Nouvel Observateur, là trên bộ mặt của Mác râu ria xồm xoàm, một mắt bên trái (tức tả khuynh) là đầu Mao trạch Đông và mắt bên phải (tức hữu khuynh) là đầu Brê-giơ-nép đang chửi nhau qua cái sống mũi của Mác. Nghĩa là tụi có quyền dựa vào quan thầy tranh ăn với nhau nhưng cả hai phe đều là con đẻ của cộng sản. Bây giờ có đủ bằng chứng để kết luận rằng cộng sản = mafia đỏ. Còn thân phận người dân vẫn là lao động “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm chủ nhật”, còn vẫn chỉ được ăn “rau muống” như đề nghị của bác sỹ Nguyễn khắc Viện, hoặc “ăn 7kg lá khoai mỳ thay cho 1kg thịt bò” như phổ biến của ủy ban khoa học nhà nước, hoặc “ăn thai nhi và nhau đẻ” như phổ biến của ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban!!! Chưa ai nghe nói rằng cái nhóm đó đòi hỏi chút tự do, chút miếng ăn cho người dân. Có thể là họ còn “để bụng” đến những năm gần đây mới “bật mí” cho dân được sung sướng bất ngờ?(!)
Từ sau 30-4-1975, sau khi mafia đỏ đặt ách thực dân đỏ lên miền Nam Việt Nam, thì lối sinh hoạt và sản xuất của miền Nam Việt Nam; nền văn hóa, văn nghệ hòa hợp với nhân gian của miền Nam Việt Nam; tự do tín ngưỡng, đi lại, lập hội, ra báo của miền Nam Việt Nam trước kia và v.v…, đã đánh thức người dân miền Bắc Việt Nam (trong đó có cả các văn nghệ sỹ và những người trong “vụ án xét lại chống đảng” bị đẩy khỏi cung đình quan lại mafia đỏ Hà-nội để làm dân) khỏi giấc mộng du trong con hẻm bùn lầy XHCN của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Chỉ khi đó người ta mới thấy nhu cầu dân chủ và đấu tranh cho dân chủ, nhất là sau khi hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại và sự sụp đổ của hệ thống XHCN, đặc biệt là Nga-xô, mẫu quốc đỏ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cũng xin lưu ý rằng, hiện nay có một số cán bộ lão thành của mafia đỏ Hồ chí Minh lên tiếng vạch mặt bè lũ tham nhũng, đĩ bợm, bán nước trong ngụy quyền cộng sản Hà-nội. Họ hoàn toàn không dính dáng gì đến nhóm những người trong “vụ án xét lại chống đảng”. Thí dụ như các ông Nguyễn văn Đào, Hoàng hữu Nhân, Lê Giản v.v… Đặc biệt là nhóm quá khứ là công an như Lê Giản, Chu định Xương và Hoàng Đạo v.v… đã bị “cho ra rìa” từ trước và sau 1954. Bởi vì những người đó không thích hợp cho bộ máy chuyên chính của họ Hồ sau khi Hồ đã đặt được ách trị lên đầu người dân miền Bắc Việt Nam. Đối với Hồ, họ là quả chanh đã bị vắt kiệt nước thì phải quăng đi. Thí dụ: Lê Giản, Chu định Xương đã dàn dựng vụ án “Ôn như Hầu” năm 1946 ở Hà-nội, để bôi nhọ VNQDĐ. Hay Hoàng Đạo (nguyên trưởng ty công an Thanh-hóa) cùng đệ tử là Nguyễn kim Sơn (anh ruột bác sỹ Nguyễn ngọc Hà, trong tổ chức Việt gian ở Pháp, trước 1975) đã hoàn thành vụ đánh đắm chiếc tàu thủy của Pháp. Những năm 1960, họ vẫn cứ mang cái “mác” công an để ra các quán bia hơi ở Cổ-tân, Quan-thánh v.v… (tất cả đều ở Hà-nội) hù mấy anh chàng xã viên hợp tác xã, có tiền, đễ uống bia gỡ, suốt từ 10 giờ sáng cho đến 6-7 giờ tối. Sau 1975, Hoàng Đạo và Kim Sơn còn mò vào tận Sài-gòn để mang lại cái “mác” công an đi lừa đảo, kiếm ăn cũng khấm khớ. Ngay Kim Sơn, chí ít cũng lừa được 4 cái vi-la: một cho con trai, một cho bản thân, hai cho các em trai.
Ngày nay, đứng ở vị thế “làm dân”, không làm quan đã lâu, nên họ mới ngộ cái nghiệp làm dân mà đứng lên nói được mới một chút sự thật mà thôi, và do khí thế đòi dân chủ, đòi quyền làm người nói chung, họ mới bắt đầu “chống mafia đỏ”!
Xin đừng lẫn lộn với những người như ông Nguyễn Hộ hay những người như các nhà văn Dương thu Hương, Lưu quang Vũ, Phùng gia Lộc, nhà thơ Bùi minh Quốc, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu), ông Vũ cao Quận, đại tá Phạm quế Dương v.v… là những người thực sự tỉnh ngộ cơn ác mộng XHCN và đấu tranh cho dân chủ, tuy ở những mức độ khác nhau.
Còn những loại như bác sỹ Nguyễn khắc Viện là nhân vật cơ hội điển hình và đệ tử ruột là Vũ Cận (dù là có tập thơ “chống chế độ”, khoe là bí mật viết từ lâu). Những ai đọc và biết về hai nhân vật này, đều thấy họ là cái chong chóng, thổi mạnh là quay như đèn cù! Còn thạc sỹ Trần đức Thảo thì vì “luyện học thuyết Mác” mà ăn thịt cóc nên bị “tẩu hỏa nhập ma”, chẳng có ích gì cho dân tộc cũng như bản thân. Cái đáng trách nhất là ông ta đã để mafia đỏ dùng vào việc “đấu” ông Hà sỹ Phu trên báo Nhân dân, cơ quan nói láo của mafia đỏ!!!
Những người đấu tranh cho dân chủ mãnh liệt nhất chính là nông dân, như ở Đồng-nai, Thanh-hóa, Thái-bình v.v… vì họ ở vị trí dân thứ thiệt, chứ không phải là loại “quan bị cách” nên bật lò-xo, hoặc đánh cá độ “phe này phe kia”, và một bộ phận nữa là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nói chung.
Nêu lên những sự thật mắt thấy tai nghe nói trên, người viết chỉ muốn minh bạch mọi việc, để sau này có ai soạn lại lịch sử Việt Nam tránh bị lẫn lộn cảnh “râu ông nọ cắm cằm bà kia”!
Bài 11
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Xin nói tiếp về nghệ thuật đu dây của họ Hồ
Sau khi Dương bạch Mai đi tàu suốt đến ga “âm ty” và để Lê đức Thọ sửa gáy tất cả những ai dám bảo lưu ý kiến về “nghị quyết 9”, Hồ cho gọi Nguyễn văn Kỉnh, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, đang làm nhiệm vụ đại sứ ở Nga-xô về giữ ghế chủ tịch hội Việt-Xô, kiêm phó ban đối ngoại trung ương, phụ trách thường trực (Nguyễn duy Trinh, ủy viên chính trị bộ là trưởng ban kiêm phó thủ tướng, phụ trách bộ trưởng ngoại giao). Như thế có nghĩa Hồ đã làm yên lòng mẫu quốc đỏ Nga-xô, vì vị trí của Nguyễn văn Kỉnh quan trọng hơn Dương bạch Mai nhiều và cũng là người được Nga-xô hiểu và tin hơn.
Tháng 10-1964, lại có đảo chánh cung đình ở Nga-xô, Brê-giơ-nép thay cái ghế của Khơ-rút-xốp. Lê Duẩn mà có người “hư cấu” là thân Trung cộng, theo lệnh Hồ cầm đầu đoàn “cái bang” sang Nga-xô xin viện trợ cho kế hoạch tăng cường thâm nhập miền Nam Việt Nam. Và, tại đại hội lần 23 của Nga-xô, Lê Duẩn còn công khai tuyên bố: “Liên-xô là tổ quốc thứ hai của chúng tôi”!!!
Thử đặt câu hỏi: “Chúng tôi là ai”? Xin thưa: Như thế có nghĩa là: Toàn thể tập đoàn mafia đỏ Việt Nam mà họ Hồ là đầu lãnh chóp bu (chủ tịch đảng). Khác với lời tuyên bố của Vũ đình Liệu, năm 1978, là chủ tịch Sài-gòn, khi thăm Lê-nin-grát chỉ nói rằng: Liên-xô là tổ quốc thứ hai của tôi, và chuyến đi này là hành hương về thánh địa”!!!
Hồ không ra mặt tuyên bố là còn để mở lối đi lại với “anh hai Trung cộng”. Hơn nữa, câu đó Hồ đã nói từ khi mang cái tên Nga – Line – và Hồ thường gắn vào mọi nghị quyết của mafia đỏ là: “Phải bảo vệ Liên-xô, thành trì cách mạng thế giới”, cũng như khi còn rúc đầu ở hang Pắc-bó (Cao-bằng), đã gọi dòng suối chảy qua cửa hang là Lê-nin. Thật quá đủ diện mạo của Hồ là thật lòng với ai và giả dối với ai.
Lập luận cho Lê Duẩn là thân Trung cộng, rồi vì Mao chơi kẻ cả nên Duẩn tự ái ngả sang Nga-xô, chỉ dựa theo tên thò lò cơ hội Trần Quỳnh, thì đúng như lối nói ở miền Nam là: “chơớc quơớc”!
Nên nhớ rằng, mặt của tụi đầu đà mafia đỏ, từ Hồ cho đến nay là bè lũ Nông đức Mạnh, dày như da tê giác, trơ như thớt chặt thịt quay của các tiệm ba Tàu ở Chợ-lớn. Lũ vô liêm sỉ đó chỉ quan tâm đến quyền lợi của chúng, ở cái ghế ngồi của chúng mà thôi. Chúng tự cao chỗ này, tự ti chỗ kia, đâu biết tự ái!
Ai đã biết thằng Trần Quỳnh rồi thì chẳng bao giờ nghe nó nói, đọc nó viết. Còn chót đọc của nó viết rồi thì nên quên đi cho vệ sinh bộ nhớ!
Hồ ngồi ở Ba-đình giật dây: Lê Duẩn khúm núm với Brê-giơ-nép, còn phía “anh hai Trung cộng” thì đã có Hoàng văn Hoan ăn nằm thường trực cùng với những yêu cầu về súng, đạn của Nguyễn chí Thanh từ miền Nam Việt Nam tới tấp gửi ra. Hoan và Thanh mới chính là hai tên thân Trung cộng thứ thiệt. Hoan thì khoái gái Tàu và đồ ăn Tàu và rượu Mao-đài. Còn Thanh thì thích “uống máu dân” như Trung cộng và lúc nào cũng gồng mình, gân cốt như mấy võ sinh ở Thiếu-lâm-tự vậy. Sự sốt sắng của Thanh là vì muốn “vĩ đại” hơn Võ nguyên Giáp. Nhưng còn một lý do thầm kín nữa là Thanh muốn Hồ quên cái tội của Thanh khi bị mật thám thực dân Pháp bắt đã khai tùm lum, làm tan tổ chức mafia đỏ ở Khu 5, nhưng Thanh lại “vu” cho Đặng xuân Thiều (anh em họ của Trường Chinh) là kẻ khai báo. Hồ biết cái tội đó của Thanh nên mới dùng Thanh để cân bằng với Giáp (bị tù cũng khai báo và làm đơn xin khoan hồng). Vì thế mới gần như cùng lúc Hồ phong cho một cử nhân luật, giáo sư sử học là “đại tướng tổng tư lệnh”, thì cũng cho làm “tướng bốn sao” một anh chàng trên mức đọc thông viết thạo, kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị. Nghĩa là bên chuyên bên hồng (như kiểu ở xe hơi thì bên là động cơ phát lực di động, bên là cái thắng) như thế mới an toàn cho Hồ cầm bánh lái lực lượng vũ trang. Cho nên đến tận ngày Hồ chết, không bao giờ Hồ nghĩ đến việc ban cho Giáp cái quân hàm “nguyên soái”!!!
Tội ác của Nga-xô và Trung cộng đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng cũng “vĩ đại” ngang nhau. Đó là việc bọn chúng đào tạo ngụy quân, trang bị hiện đại cho chúng và khuyến khích chúng lập thành tích tàn phá tài nguyên, tàn sát nhân dân Việt Nam càng nhiều càng tốt. Cho nên bất cứ nhóm nào chỉ chống Trung cộng mà thân Nga-xô hay ngược lại, không thể được coi là hành động vì dân vì nước.
Chỉ có người dân mới sáng suốt nhận diện được cả ba kẻ thù là: Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.
Những thành phố lớn như Hà-nội, Hải-phòng, Nam-định, từ thuở đó đã xuất hiện những bài “đồng giao”, trẻ con tụ tập hát như:
“Ông Liên-xô
Bà Trung quốc
Ông đi guốc
Bà đi giầy
Ông nhảy dây
Bà bắn súng
Ông khen: đúng
Bà chê: sai
Bỏ cả hai
Là đúng nhất!”
Hoặc thơ ghế đá:
“Họ Hồ có cái mặt mo
Bắc-kinh xin đổi ba bò, chín trâu
Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu
Nga-xô xin đổi một xâu cá mè
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè
Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim
Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim
Nga-xô xin đổi đôi chim đồi mồi
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi
Bắc-kinh xin đổi máu tươi: Hồ cười
Nga-xô thêm “tý” thịt người Việt Nam
Mặt mo! Hồ đúng Việt gian!!!”
Thế là Lê Duẩn thì đóng vai cánh tay phải của Hồ, nắm chặt tay “anh cả Nga-xô”. Lê Duẩn còn đặt vào cái ghế đại sứ ở Nga-xô một nhân vật “lạ kỳ về sự thân tín” của Duẩn, đó là Nguyễn thọ Chân. Cho đến tận 1960, anh chàng Nguyễn thọ Chân này, cũng như tụi mafia đỏ khác, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập kết ra Bắc, vẫn còn nằm trong ẩn số. Hắn làm thường trực, tức gác cửa ở văn phòng bộ Lao động. Một hôm Lê Duẩn đến bộ Lao động, nhìn thấy Nguyễn thọ Chân, hỏi tại sao lại làm “gác cửa” ở đây. Chân đáp là do “tổ chức” sắp xếp. Vài ngày sau, Nguyễn thọ Chân được Lê Duẩn gọi lên gặp Hồ. Và, sau đó thì “tự dưng” được đề bạt thành “ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ” và cầm quyết định ra làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh (tỉnh biên giới với Tàu), thay cho Hoàng Chính, một người gốc Nùng, thân Trung cộng và là đệ tử ruột của Trường Chinh. Sau đợt gọi là dẹp yên nhóm chống đối nghị quyết 9, Nguyễn đức Tâm, từng là phó cho Hồ viết Thắng trong cải cách ruộng đất, khi sửa sai bị “lột chức” dự khuyết trung ương mafia đỏ, nhưng lại về làm tổng cục trưởng tổng cục vật tư, nay ra thay Nguyễn thọ Chân làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh. Tại cái đất mỏ than này, Nguyễn đức Tâm đã phát hiện ra hai con “gà nòi” mafia đỏ để đào tạo. Đó là tên Phạm thế Duyệt, tham nhũng “một cây”, và tên nữa là Vũ Mão. Đến thời Nguyễn văn Linh, Nguyễn đức Tâm vọt lên ngồi vào cái ghế của Lê đức Thọ, tức là trưởng ban tổ chức trung ương. Điền này càng chứng minh việc họ Hồ “nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất” chỉ là một thủ đoạn chính trị lưu manh mà thôi. Còn Nguyễn thọ Chân, được Hồ phong cho chức ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, để qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền.
Và, kẻ đóng vai tay trái của Hồ là Trường Chinh, thì luôn luôn tỏ ra Mao-ít, với bài nói gay gắt trong cái gọi là “đại hội các nhà văn”, tức lũ bút nô, và bài báo sặc mùi “công xã” trên báo Nhân dân, phê phán việc “khoán sản phẩm” đến các hộ nông dân của Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy của mafia đỏ ở Vĩnh-phú, và Kim Ngọc bị lột chức, ngồi chơi cho đến chết. Hoàng văn Hoan, một kẻ được Trung cộng hết lòng tin cậy, từ Bắc-kinh về Hà-nội để có mặt đều đặn trong các cuộc họp chính trị bộ, nhằm làm Trung cộng an tâm là không có bàn thảo gì bậy bạ sau lưng “anh hai Trung cộng”. Cái ghế đại sứ ở Bắc-kinh được trao cho một đàn em thân tín của Trường Chinh. Đó là trung tướng Trần tử Bình, nguyên tổng thanh tra ngụy quân cộng sản, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ. Bình là gốc công giáo, “tu xuất”, gia nhập mafia đỏ cùng thời với ông Vũ đình Huỳnh!
Nhân sự do Hồ bày biện xong xuôi, thế là từ Nga-xô lũ ngụy quân học lái máy bay, điều khiển ra-đa, tên lửa; ngụy quân lái xe tăng, công binh, vũ khí hóa học trở về, cũng như máy bay Mic-17 và tên lửa Sam ào ào đổ vào cho Hồ; cùng vài phi đội Mic-21 với phi công Nga-xô và Bắc-hàn. Nhiều nhân viên dưới quyền Trần quốc Hoàn, bộ trưởng công an, được đưa qua học nghề gián điệp tại Cu-ba và Đông-Đức cũng trở về. Lũ mafia đỏ ở miền Nam tập kết ra Bắc trước đây, được tập hợp, đào tạo lại tại Thái-nguyên để cho thâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhân sự miền Bắc trong các ngành giao thông vận tải, bưu điện – truyền thanh và thương nghiệp cũng được tổ chức qua Lào nắm các công tác chuyên môn, kể cả các chức vụ trưởng ty của tỉnh. Bộ công nghiệp được Hồ thổi phồng lên thành ủy ban nông nghiệp trung ương, vì nó có nhiệm vụ quản lý cả ngành nông nghiệp không chỉ của “toàn Việt Nam” mà là của toàn Đông-dương. Nào là kế hoạch trồng ngô trên cao nguyên Bô-lô-ven, cũng như kế hoạch nuôi bò giống ở Ba-vì (Sơn-tây) sản xuất tinh viên đủ để cải tạo đàn bò của cả Việt Nam, Lào và Miên!!! Hồ đích thân cưỡi trực thăng đi thăm trại bò giống, và sau đó thì lại đẻ ra trò hưởng thụ mới, nghĩa là ngày ngày máy bay trực thăng lên trại bò sữa Sơn-la hoặc Ba-vì chở sữa tươi về cho Hồ và lũ đầu đà trong tập đoàn Việt gian của Hồ uống.
Trong lúc mà những bà mẹ “công nhân” thiếu sữa cho con bú, phải ra phòng thương nghiệp ngồi chờ vài tiếng đồng hồ để nhân viên thương nghiệp ra bóp vú, nếu thấy quả là không có sữa mới cấp tem cho mua hai hộp sữa đặc, nhãn hiệu “ông Thọ”, nhiều khi đã quá hạn. Con bú hết, muốn xin mua tiếp, người mẹ lại phải ra cho thương nghiệp “bóp vú lại”. Cứ như thế cho đến lúc đứa bé đủ mười hai tháng tuổi thì coi như hết tuổi bú sữa!!!
Việc viện trợ quân sự của “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” là giúp Hồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam cho có hiệu quả, nên mọi yêu cầu sự giúp đỡ cụ thể từ phía Trung cộng là do Nguyễn chí Thanh đề xuất, kể cả việc xin Trung cộng cho công binh qua làm đường để chuyển vận chiến cụ. Được Hồ bật đèn xanh, “anh hai Trung cộng” khoái lắm, kéo lính ào ào sang, mang theo gạo, thịt, đường, sữa, thuốc lá “Trung hoa bài”, “Đại tiền môn”; bơ “Mông cổ”, thịt hộp v.v… và tiến hành vừa làm đường, vừa làm “dân vận” theo kiểu Tống Giang ở Lương Sơn Bạc. Nghĩa là ở các cung đường, công binh Trung cộng xây các quán “bát giác” để một thùng trà tàu loại ngon, lúc nào cũng nóng và đầy, cùng rất nhiều ca tráng men để cho khách qua đường dừng chân vào nghỉ, thoải mái uống trà “chùa”. Đã thế lại còn có lính Trung cộng khoác áo trắng, đeo khẩu trang sẵn sàng hớt tóc, cạo râu “free” cho bất cứ ai có yêu cầu. Trên bàn cạnh thùng trà là báo ảnh của Trung cộng đầy ắp, sách đỏ, trích dẫn lời của Mao, in bằng giấy xịn và bìa có vỏ bọc ny-lông màu đỏ. Rồi đủ loại huy hiệu có hình Mao và cờ Trung cộng, có cái to bằng lòng bàn tay người lớn. Người vào quán được lính Trung cộng lễ phép, niềm nở tiếp, rót nước, tặng báo ảnh, sách đỏ của Mao và gắn huy hiệu của Mao rồi mới hớt tóc, cạo râu.
Người dân Việt Nam, dù bị tới ba tầng thống trị là Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mặt mũi khù khờ, nhưng có nhiều đòn hiểm làm lũ thống trị đau như hoạn mà không kêu ai được. Họ đua nhau xin báo ảnh, sách đỏ của Mao và huy hiệu. Tụi Trung cộng hí hửng tưởng người dân Bắc Việt Nam cũng có máu Việt gian như tập đoàn Hồ cho Minh nên bị “bé cái lầm”. Người ta lấy báo ảnh của Tàu về để nhóm bếp, để dán lên vách nứa chống gió, xe lại như điếu thuốc lá rồi lấy dây luồn qua làm mành mành che cửa. Sách đỏ thì lột vỏ bọc làm “ví đựng tiền hay thuốc lào”, giấy thì để quấn “thuốc rê”. Huy hiệu của Mao thì trẻ con dùng đánh đáo, đánh cờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ v.v… Và, người qua đường khỏi nói, dân quanh đó đua nhau ra lấy trà về uống thừa mứa còn dùng rửa đít cho trẻ em bị hăm bẹn hoặc người lớn ngâm chân chống nước ăn chân (vì trà có nhiều chất “tan-nanh” làm khô da). Và, thừa cơ là “mượn dài hạn” các ca tráng men, thậm chí còn rinh cả thùng nhôm đựng trà. Người ta đến đó cho lính Trung cộng hầu hạ, cắt tóc, cạo râu, cạo mặt và cứ “tả cố, tả cố” (tức đại ca) hoặc “thổng trủ” (tức đồng chí, thế mà mấy anh lính mắt một mí tít cả hai mắt lại, và mấy chú nhỏ nhanh hơn sóc đã nẫng gọn bộ đồ nghề hớt tóc. Vài tháng đầu, bọn lính Trung cộng còn “hào phóng”, mất thì thay cái mới vì cho rằng dù sao đó cũng là sản phẩm “tuyên truyền Mao-ít” vì từ ca uống nước, thùng đựng nước v.v… cái gì cũng có hình Mao và cờ Trung cộng, theo kiểu lý thuyết Paplov thì nó sẽ định hình trong vỏ não người dân Việt Nam hình ảnh phốp pháp, bụ bẫm của “bác Mao”. Chỉ mãi sau nhờ có Hoa-kiều cho tin “tình báo” rằng thùng nước, nếu bằng nhôm, thì được phá ra đúc “chắn bùn” hoặc “chắn xích” xe đạp; nếu bằng tôn thì được phá ra làm máng nước v.v… nghĩa là “đầu bác Mao” ở những thùng đó bị thủ tiêu không kèn không trống! Thế là, sau đó hậu duệ của quân lính Tô Định, Mã Viện v.v… đành cử người gác ban ngày, nhưng vẫn cẩn thận có xích, có khóa để khóa thùng nước vào cột lầu, khóa cả vào thùng nước, chiều tối thì khiêng về doanh trại. Còn sách báo, huy hiệu và chuyện hớt tóc thì bỏ luôn. Thế là đang “dân vận” thành “dân hận”!!!
Lính Trung cộng còn có những trò hề hết sức ấu trĩ nữa. Như doanh trại của chúng thường nuôi vịt. Lũ vịt này ra ruộng của hợp tác xã rúc chân lúa. Đại diện hợp tác xã đến doanh trại của chúng khiếu nại. Thế là chỉ huy của Trung cộng sai lính ra đuổi bắt đàn vịt về chặt đầu kỷ luật, lấy cọc chọc vào “đầu lâu vịt” đem ra cắm ở bờ ruộng!!! Tất nhiên thịt vịt thì chúng ăn. Đúng là quái thai của thế kỷ 20!!! Đầu mối mọi con đường bộ do công binh Trung cộng làm đều tập trung về ga Yên Viên (Đông-anh), cách trung tâm Hà-nội chưa đến 30km. Một số người lo cho vận nước, đi tham quan những con đường đó đều thấy dã tâm của Trung cộng, khi cần thiết, chúng có thể rất nhanh chóng đổ quân ào vào Hà-nội. Chúng còn cớ làm đường, đào bới những vùng cho tới tận núi Diều ở Ninh-bình, rào kín cấm qua lại cứ như là đất của Trung cộng vậy.
Và từng đoàn, từng đoàn xe tải loại 5 tấn, bạt che kín, không biết chở những gì từ những chỗ đào bới đó về Tàu. Nhiều người dân cho rằng bọn chúng sang đào những kho vàng bạc mà trước đây chúng chôn giấu thời Việt Nam bị Bắc thuộc cả ngàn năm. Nhiều hang động vùng Ninh-bình, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Tuyên-quang, Lạng-sơn, Cao-bằng bị chúng phá tanh bành. Tụi điên Bắc Việt Nam thấy lính Trung cộng của Mao còn có phần điên hơn. Lúc nào cũng tụng sách đỏ của Mao. Mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu cứ như “hiền triết phương đông” vậy! Phải cho đến cái ngày máy bay Mỹ bắn phá ga Bắc-giang (Bắc Việt Nam), lính Trung cộng hiên ngang không thèm xuống hầm, giở sách đỏ của Mao ra tụng rồi đứng bắn máy bay Mỹ. Kết quả, máy bay Mỹ phóng cho mấy quả rocket mà đã chết hàng đống, bấy giờ con cháu họ Mao mới biết thế nào là “lễ độ”. Dân Việt Nam được mẻ cười “bể bụng”. Người ta chẳng những chẳng xót thương “các đồng chí nước bạn” mà nhiều người còn công khai nói: “Mong cho đế quốc Mỹ bắn chết mẹ nó hết cái lũ quỷ này đi!”
Những chuyện chơi khăm và chửi Trung cộng như thế hầu như chẳng ai là không biết. Vậy mà chẳng ai bị công an hỏi thăm sức khỏe. Điều đó chứng tỏ, khi Hồ còn sống, và sau khi Trường Chinh bị Hồ tước mất cái chức “tổng bí thư” thì đã chịu khuất phục Hồ và đóng đúng vai kịch mà Hồ phân công.
Chỉ cho đến lúc Nguyễn chí Thanh đưa đề nghị đem hết ngụy quân ở Bắc vào miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nhờ Trung cộng đưa quân sang “bảo vệ” hộ, thì Hồ mới phải đi nước cờ quyết định. Đó là, trước buổi đi vào Nam trở lại, Nguyễn chí Thanh được Hồ gọi ăn cơm tối cùng Hồ. Sau bữa cơm tối, ngày 6-7-1967, về thì Nguyễn chí Thanh chết, tương tự như cái chết của Dương bạch Mai vậy. Và, sau đó, đích thân Hồ yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước. Và, Trung cộng đành rút quân, nhưng làm những trò rất bần tiện, như san bằng, đốt cháy hết doanh trại. Các giếng nước đều lấp hết. Chặt từ gốc chuối chặt đi, nghĩa là làm kiểu “không ăn thì đạp đổ, phá cho bõ ghét”!!!
Cái chết của Nguyễn chí Thanh làm Trung cộng đau lắm. Trong chính bộ mafia đỏ, không kể Hồ, Nguyễn chí Thanh xếp hạng thứ sáu (sau Giáp). Ấy thế mà đích thân cả Mao và Lâm Bưu cùng đến sứ quán ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh đặt vòng hoa và nghiêng mình viếng. Còn sau này, Hồ chết, Mao và Lâm Bưu chỉ cho thư ký riêng mang vòng hoa viếng đến sứ quán mà thôi!!!
Những người cho rằng Hồ bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ khống chế từ khoảng 1955-56 chỉ là tưởng tượng. Vì giai đoạn đó chưa có dấu hiệu gì tỏ ra nhóm Lê Duẩn trên cơ ngay cả Trường Chinh chứ đừng nói gì đến Hồ. Ngay cả sau đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, nhiều người còn lẫn lộn cả danh xưng của Lê Duẩn, họ viết rằng Lê Duẩn được bầu là “tổng bí thư”. Điều đó là sai hoàn toàn. Trong đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, Hồ chính là người giới thiệu danh sách chính trị bộ gồm 11 người, giới thiệu ban bí thư và giới thiệu Lê Duẩn vào chức “bí thư thứ nhất” để cho ban chấp hành trung ương bầu. Tất nhiên tất cả đều diễn ra đúng như ý Hồ, kể cả cái thứ tự trong bộ chính trị không kể Hồ, như Giáp thì ở dưới Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ở hàng thứ 7 và Hoàng văn Hoan ở hạng chót. Cứ nghe cái danh xưng cũng đủ thấy rằng “bí thư thứ nhất” không thể bằng “tổng bí thư”. Nghĩa là ngôi vị của Lê Duẩn không thể so được với ngôi vị của Trường Chinh trước đó. Vì hiểu ý đồ của Hồ, nên nếu tham khảo lại các báo Nhân dân sau đại hội 3 mafia đỏ thì sẽ thấy một “chi tiết” để chứng minh điều trên. Đó là tại các cuộc mít-ting hay cuộc họp, dù có mặt Lê Duẩn, Trường Chinh chỉ nói: “Kính thưa Hồ chủ tịch”, còn sau đó chỉ gọi chung: “Thưa các đồng chí”. Dù Lê Duẩn đã được chính thức hóa qua đại hội 3 mafia đỏ, để thành nhân vật số 2, vậy mà Trường Chinh còn “coi thường” Lê Duẩn, nghĩa là tận năm 1960. Thế thì làm sao trước đó lại có thể có cái chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ “khống chế quyền lực” của Hồ.
Chuyện hành lang sau này lộ ra, cho biết Hồ đã “phê bình” Trường Chinh về chuyện coi thường Lê Duẩn, nghĩa là không tuân phục tổ chức. Thì sau đó, Trường Chinh bắt buộc phải đả động đến Lê Duẩn, nhưng lại nói: “Thưa đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương đảng”. Có nghĩa là Trường Chinh ”thưa” Duẩn vì cái chức “bí thư thứ nhất” chứ không phải con người Lê Duẩn và hoàn toàn không có chữ “kính” như đối với Hồ, khác hẳn với tính cách hèn hèn của Võ nguyên Giáp, bao giờ cũng lễ phép: “Thưa đồng chí Lê Duẩn kính mến; thưa đồng chí Trường Chinh kính mến”!!!
Hồ bắt Trường Chinh phải “tôn trọng” Lê Duẩn cũng chẳng phải ưu ái gì Lê Duẩn. Mà Hồ không cho phép được lộn xộn với những sự sắp xếp của Hồ mà thôi.
Chính vì thế mà Hồ ra khẩu lệnh trấn áp nhóm gọi là “xét lại chống đảng”, vì Hồ không chống nghị quyết 9 thì đúng ra tất cả phải răm rắp tuân theo Hồ. Có thể Hồ tha thứ khi thảo luận mà có ý kiến này nọ về nghị quyết 9. Còn đã chống, bị thiểu số mà “vẫn bảo lưu ý kiến” thì đồng nghĩa là chống lại Hồ đến kỳ cùng. Một kẻ tàn bạo, tự tôn và độc tài như Hồ, tất nhiên hắn phải trấn áp. Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ mà thôi. Chẳng khác gì trong vụ bà địa chủ yêu nước Nguyễn thị Năm, chủ đồn điền Đồng-bẩm (Thái-nguyên) bị tử hình. Hồ chỉ ra lệnh giết cái chỉ tiêu 5% dân số nông dân là địa chủ, không trực tiếp bảo giết bà Nguyễn thị Năm. Nhưng khi Hoàng quốc Việt (thường trực ủy ban cải cách ruộng đất) xin Hồ xét lại công lao của bà Nguyễn thị Năm thì Hồ từ chối, nói là cứ làm theo “cố vấn Trung cộng”. Nghĩa là cứ làm thịt bà Nguyễn thị Năm. Hồ rất thâm độc, vì nếu Hồ can thiệp thì chính là Hồ tự trói tay mình. Cho nên vụ bà Nguyễn thị Năm được làm ngay đầu tiên ở đợt gọi là “thí điểm”! Các đội cải cách thấy rằng, đến bà Nguyễn thị Năm là người có ơn không chỉ với Hồ và với toàn thể đầu lĩnh mafia đỏ chóp bu mà vẫn để cho “nông dân cốt cán” giết thì, ngoài Hồ ra, chẳng ai đáng kể. Vì thế mới có chuyện ở Hành Thiện, đội cải cách cho lệnh bắt cả bố đẻ của Trường Chinh và còn đòi Trường Chinh phải về quê cho “cốt cán” hỏi tội liên quan với địa chủ cường hào. (Về chuyện này có người lầm rằng Trường Chinh đã đấu cả bố đẻ. Họ lầm như vậy chẳng hóa ra Trường Chinh thẳng thắn “pháp bất vị thân” hay sao?(!)). Và, đấy cũng là ý đồ của Hồ, muốn rằng: “rễ cốt cán” sửa gáy tất tật những ai có chức, có quyền. Kẻ chết, hay tù thì thôi, kẻ thoát nạn thì tởn đến chết, hoặc theo Hồ ngoan ngoãn như bầy cừu, hoặc trốn vào vùng của Quốc trưởng Bảo Đại, càng tốt. Vì điều đó “chứng minh” họ là “phản động nằm vùng” thật (có ai biết rằng chính Hồ đẩy người ta phải đi tìm đường sống).
Hiện nay không có chút gì khó khăn để tìm đọc lại những số báo Nhân dân hay xem lại những thước phim tài liệu và thời sự của thời kỳ trước vụ Tết Mậu Thân (1968). ở đó có đủ chứng cớ để thấy Hồ vẫn là kẻ chủ mưu trong vụ xâm lăng đó. Những người hư cấu chuyện “Hồ bị ra rìa” kể cả Lữ Phương, đều gắn Hồ và Giáp cùng một phe và bị phe Lê Duẩn, Lê đức Thọ chèn ép, đến mức vụ Mậu Thân (1968) Hồ chỉ làm nhiệm vụ “thâu băng” bài thơ chúc tết, còn thì không biết gì cả, chưa cần sử dụng đến nhiều tài liệu trên báo Nhân dân và phim tài liệu, thời sự, chỉ cần lấy một tin trên báo Nhân dân có tường thuật vài tháng trước Tết Mậu Thân (1968), Hồ đã sang sân bay Gia-lâm thăm lính ngụy trong đơn vị tên lửa và không quân để động viên tinh thần chiến đấu của bọn chúng. Tháp tùng Hồ có nhiều bộ mặt ác ôn, trong đó có Võ nguyên Giáp và Tố Hữu. Chuyện kể lại dưới đây, không đăng trên báo nào cả, nhưng nó lại được kể ở hầu hết các tòa soạn báo, đài và cả ở các quán cà-phê, quán bia hơi ở Hà-nội. Đó là khi nghe tin Hồ đến thăm đơn vị, lính ngụy trong binh chủng phòng không, không quân vừa đi học ở Nga-xô về, ào ào chạy ra chẳng có hàng ngũ gì cả. Từ tư lệnh binh chủng cho đến tụi bảo vệ, cho đến Tố Hữu, Văn tiến Dũng đều vây quanh để “bảo vệ” Hồ, trong khi Võ nguyên Giáp cầm loa điện cầm tay gào lên: “Yêu cầu trật tự”, mà lính ngụy cứ lờ đi. Hồ bèn giật lấy loa trên tay Giáp và hô: “Nghiêm”. Theo “phản xạ lính”, tất cả đứng nghiêm. Hồ lại hô to: “Tất cả xếp hàng, năm hàng dọc!” Bọn lính vội xếp hàng. Hồ hô tiếp: “Nghiêm!”, rồi lại hô: “Nghỉ!”; và cuối cùng Hồ hô: “Nghiêm! Đằng sau quay! Đều bước!” Bọn lính ngụy răm rắp làm theo. Bấy giờ Hồ cười cười quay lại bảo Giáp: “Chú là đại tướng thế mà không biết điều khiển lính!”
Một tên gián điệp lão luyện, phản ứng rất nhanh như Hồ, ăn nói với phó thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng như nói với thằng nhỏ, con sen như vậy, liệu có thể là kẻ để cho Lê Duẩn không chế không?
Có một điều nữa mà các nhà “hư cấu” quên. Đó là ai ai cũng biết rằng bày binh, bố trận và điều khiển toàn bộ cái gọi là “tống tấn công và nổi dậy” của Tết Mậu Thân (1968) là do Võ nguyên Giáp chỉ huy. Nếu Giáp đã cùng phe với Hồ thì tại sao Giáp lại đi với Lê Duẩn và Lê đức Thọ để chơi gác Hồ, không cho Hồ biết gì caû. Như thế là Giáp theo phe Lê Duẩn rồi còn gì nữa. Hơn nữa cái kế hoạch về Tết Mậu Thân (1968) đó, đâu phải là chuyện hai ba ngày hay hai ba tuần, mà phải chuẩn bị chí ít là cả năm!!!
Có thể nói rằng, ý đồ của Hồ muốn chiếm được miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968) là chính. Hồ tưởng rằng sau vụ tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam bị khủng hoảng chính trị, các tướng lãnh thay nhau cầm quyền, chưa ổn định, là thời cơ thuận lợi cho Hồ sớm được làm chủ tịch cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Cho nên cái “tổng tấn công và nổi dậy” là ý kiến của Hồ và khẩu khí của Hồ, rất ăn khớp với “thi hứng” của Hồ trong sáng tác bài vè chúc Tết Mậu Thân (1968). Võ nguyên Giáp chỉ là kẻ thừa hành về kế hoạch quân sự, còn Lê Duẩn là về mặt chính trị, nghĩa là chỉ đạo cái xứ ủy mafia đỏ ở miền Nam (hay còn gọi là đảng nhân dân cách mạng) làm cái việc tổ chức cho nhân dân vùng dậy!
Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh quá chủ quan. Ấy là miền Nam Việt Nam còn đang bị khủng hoảng chính trị mà tụi chúng còn bị ôm đầu máu. Và, nhân dân miền Nam Việt Nam thì chỉ có số ít đầu trâu mặt ngựa nghe chúng xúi dại “ăn cứt gà sáp”, và một số “trí thức yêu bánh vẽ” là tụ họp đánh võ mồm rồi trốn ra bưng!
Từ ngày có mafia đỏ Hồ chí Minh, thì rõ ràng chỉ có những quân nhân tiền thân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa là đích thực chống mafia đỏ bảo vệ đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính cái lực lượng này, trong chiến tranh thì đem sinh mạng, máu thịt, hạnh phúc gia đình, tuổi trẻ, sức khỏe, hiến dâng cho Dân tộc và Tổ quốc. Sau khi bị mafia đỏ xâm lược, đặt ách cai trị thì cũng cái lực lượng này bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh trả thù tàn bạo không chỉ cá nhân mà cả gia đình. Sống thì tù đày, chết thì bị san bằng mồ mả. Và, cho đến nay thiệt thòi nhất vẫn là những quân nhân anh hùng đó bị tàn phế, còn kẹt lại ở trong nước, tiếp tục bị phân biệt đối xử và trấn áp không chỉ cá nhân mà hệ lụy đến cả gia đình, con cái.
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là ân nhân, là chỗ dựa tin cậy của đất nước và nhân dân Việt Nam, đã và vẫn sẽ là chủ lực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của nước Việt Nam dân chủ.
Những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như các thế hệ Việt Nam hiện nay và sau này không thể không ghi nhớ trong tâm khảm những con người anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hiện đại. Đó là các thiếu tướng liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng; các chuẩn tướng liệt sỹ Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ; đại tá liệt sỹ Hồ Ngọc Cẩn; trung tá liệt sỹ Nguyễn văn Long v.v…; cũng như các vị liệt sỹ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch v.v…; và các vị tử vì đạo như cụ bà Nguyễn Thị Thu, Phật tử Hồ Tấn Anh v.v…
Để giấy bút viết về những người đó, để lòng quý mến, yêu thương tưởng niệm những người đó hơn là “đi tỵ nạn cộng sản” mà phúng điếu, thương khóc những tên cộng sản nằm vùng, trong khi thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt ở Việt Nam thì phải ăn xin, bị phân biệt đối xử; các người đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho dân chủ bị khủng bố, bị tù đày v.v…, còn bọn chúng, như tên Trịnh công Sơn là một ví dụ, sống thì ở vi-la trên con phố của quan lại đỏ cao cấp; uống rượu tây, đi nước ngoài như đi chợ; chết thì các đầu lãnh chóp bu mafia đỏ ở trung ương như Võ văn Kiệt (tác giả nghị định 31/CP), Phan văn Khải v.v… gửi điện chia buồn, gửi hoa phúng điếu; và chóp bu mafia đỏ ở Sài-gòn là Nguyễn minh Triết đích thân đến ngồi bên quan tài!!!
Thất bại của Tết Mậu Thân (1968) là nguyên nhân để Võ nguyên Giáp không chỉ bị Hồ hết tin cậy “cái tài cầm quân” mà còn bị phe Lê Duẩn coi thường, kể cả các cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân.
Với Hồ, hắn choáng váng, không hy vọng gì sẽ được làm chủ tịch của cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Tên mật thám già xuống tinh thần và hắn quay lại với “tử vi”. Bởi đã một lần hắn tự bấm tử vi và đoán trúng là sẽ thành công lúc 55 tuổi (tức 1945), như Võ nguyên Giáp có nhắc đến trong cuốn “Những năm tháng không thể nào quên”. Trong thư viện quốc gia và cả thư viện khoa học xã hội ở Hà-nội, bao nhiêu sách về tử vi bị mượn dài hạn. Người ký tên mượn là Vũ Kỳ, thư ký riêng và tin cẩn của Hồ. Và, cũng cái năm 1968 đó, hoạt động của các tôn giáo như Phật giáo và Công giáo lại phục hồi. Người ta công khai đi lễ Nhà Thờ, đi lễ Chùa, lập bàn thờ ở gia đình, bày ảnh cha, chồng, con em theo Hồ đi ăn cướp ở miền Nam Việt Nam bị giết chết “bất đắc kỳ tử”, nhiều đứa bị mất xác. Thế là không chỉ lễ bái mà cả “gọi hồn” và “lợi dụng” tụ họp làm giỗ “liệt sỹ” để chè chén! Làm sao ngụy quyền Hồ chí Minh giải quyết được chuyện đó bằng biện pháp “chuyên chính”, bởi nhân sự ngay của cái gọi là cơ quan chuyên chính của Hồ cũng là nạn nhân của Hồ trong kế hoạch xâm lăng miền Nam Việt Nam. “Sinh Bắc tử Nam”, thực sự là nỗi lo sợ, ám ảnh mọi gia đình có con cái ở tuổi trưởng thành. Cũng từ đó bắt đầu có chuyện “trốn lính” nên có pháp lệnh ban hành luật “nghĩa vụ quân sự”. Nhưng, cái “luật nghĩa vụ quân sự” này bị phá ngay từ ở bậc hành chính cơ sở (tức huyện, xã). Con em, hoặc họ hàng xa gần của tụi mafia đỏ mafia đỏ ở cơ sở cũng bị bắt lính, và cái gương “ôm đầu máu” của Tết Mậu Thân khiến chúng lo sợ tìm cách “tập thể” trong đường dây trốn lính. Tỷ dụ như khi khám nghĩa vụ, họ đánh tráo người không đủ cân, chiều cao mà đội khám không thể nhận diện được vì có sự đồng lõa của chính “công an xã”, “chủ tịch xã” xác nhận kẻ “đánh tráo” là đương sự thứ thiệt!!! Đường dây đồng lõa lên tới tận cấp huyện. Cho nên nhân viên của “tỉnh đội dân quân tự vệ” về xã bắt những kẻ trốn lính mà có khi kẻ trốn lính đứng ngay trước mặt cũng đành chịu, chưa nói đến là họ báo động cho nhau bỏ trốn từ xã nọ sang xã kia! Đâu cũng có tình trạng trốn lính, nhưng nổi tiếng nhất là tỉnh Hà-tây (do hai tỉnh Hà-đông và Sơn-tây bị nhập làm một), có tên là “Hà lùi”!
Bài 12
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Tội ác của Hồ giáng lên đầu nhân dân cả nước Việt Nam, từ số liệu người chết, do chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam mà Hồ phát động được trưng ra bởi tên trung tướng ngụy quân cộng sản Nguyễn đình Ước; số liệu người chết vì “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” cũng đã vài triệu; chưa kể đến tụi mafia đỏ không cho phép thống kê số người chết đói, chết bệnh vì thiếu thuốc men v.v… Tất cả những cái chết đó đều bắt nguồn từ âm mưu của Hồ lèo lái chiến tranh giải phóng dân tộc, do Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội Khóa 1 lãnh đạo, thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Cũng vì phục vụ chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ mà Hồ đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, đánh thức dậy dã tâm cướp đất, cướp biển của Tàu lục địa để mở đường cho chúng tiếp tục chính sách bá quyền bành trướng và làm mẫu mực bán nước cho đến bây giờ là bè lũ Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Lê khả Phiêu, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nông đức Mạnh noi theo.
Những tội ác trên là rõ ràng, không thể chối cãi và nhiều người đã công khai lên án. Nhưng, một tội ác khủng khiếp mà hậu quả của nó chưa biết bao giờ chấm dứt, đó là Hồ sử dụng tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn phá tan truyền thống nhân ái, liêm chính, hỷ xả của nhân dân Việt Nam.
Nhìn vào bức tranh xã hội Việt Nam hiện nay, dù là đã bị sàng lọc qua ngòi bút của chính nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, thì thật là khủng khiếp. Tham nhũng, đĩ điếm, nếp sống vô luân, vô liêm sỉ, cơ hội, mánh mung v.v… không chỉ ở cái như xưa kia gọi là “tầng lớp hạ lưu”, mà nó thành lối sống của ngay chính tập đoàn thống trị, tầng lớp trí thức cho đến cả các hội đoàn tôn giáo (quốc doanh), cả thành thị, cả nông thôn, cả miền núi và cũng đang rục rịch ra hoa kết trái ngay trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại!!!
Một vài ngòi bút ở hải ngoại đã và đang viết sách chửi cả dân tộc Việt Nam, y như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, chửi cả làng Vũ-đại vậy. Và từ đó thì Chí Phèo nổi tiếng có thể nói là hạng nhất của làng Vũ-đại. Trong khi đó, những người bình thường, hiền hòa, an phận không muốn nổi danh – dù thơm hay thối – vẫn bốn mùa chăm lo cày cấy; vẫn đều đặn tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông chùa. Và, khi có giặc thì cũng góp máu xương giữ làng, giữ nước. Có nghĩa là, đứng ở góc độ người dân (không muốn chơi trội, không có máu bon chen, cơ hội để cố ngoi lên làm lãnh tụ) trong đó có cả Thị Nở, thì làng Vũ-đại vẫn là cái gì đó thân thương quyện vào máu thịt, quyện vào từng hơi thở. Chỉ có duy nhất Chí Phèo phải mượn rượu để đủ can đảm chửi đổng cả cha, cả mẹ, cả trời, cả đất và cuối cùng là cả làng Vũ-đại!
Sự tồn tại của dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay chẳng lẽ là do “thiếu tự hào dân tộc”, “đố kỵ ghen ghét nhau, “tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau” và v.v… Người có nhận xét và sử dụng chữ nghĩa đó chính là me-xừ Nguyễn gia Kiểng với cái tên cuốn sách cũng đặt “lộn tùng phèo” là “Tổ quốc ăn năn”. Lá gan to như vậy, phải ra đến hải ngoại mới dám lớn lối, còn lúc trong vòng kiềm tỏa của mafia đỏ thì nó co lại có phần còn nhỏ hơn gan muỗi. Có lẽ cái tâm lý ấy dẫn dắt nên bây giờ nó nổ tung ra.
Nêu lên cái hiện tượng “Âu dương Phong luyện chưởng” trong làng viết ở hải ngoại, để thấy đấy cũng là nạn nhân của sự phá hoại các giá trị tinh thần của Việt Nam do tên đại gian, đại ác Hồ chí Minh thực hiện, còn hệ lụy đến nay và ra cả hải ngoại!
Trong tình hình hiện nay, nhiều ngòi bút bị mất phương hướng nên bày ra cái trò “bát quái trận đồ”, mà tập đoàn mafia đỏ cố tình cổ võ và chỉ đạo, để bút mực, công sức ở hải ngoại phí phạm vào cái trò tranh luận “kiểu lá diêu bông là cái gì” mà quên rằng chúng ta chỉ có một cách duy nhất, một khả năng trội hẳn là dùng ngòi bút để vạch rõ tội ác của tập đoàn Việt gian bán nước Hồ chí Minh mà điểm quan trọng nhất là chính tên Việt gian Hồ chí Minh!!!
Nhân dân trong nước, nhất là nông dân đã bắt đầu vùng lên, lan rộng cả ba miền Trung, Nam và Bắc Việt Nam. Những nơi được coi là “hang ổ của cách mạng mafia đỏ” lại là nơi mâu thuẫn gay gắt nhất như Thanh-hóa, Thái-bình, Bến-tre v.v… Nhưng chỉ đến thế thì chững lại.
Tại sao vậy?
- Tất nhiên là bị ngụy quyền cộng sản Hà-nội dùng mọi âm mưu vừa đàn áp, vừa dụ khị.
- Tại sao chúng lại dụ khị được?
Chính nhờ cái bóng ma của Hồ chí Minh vậy!!!
Nhân dân đã bị nhồi nhét từ nhiều năm vào đầu những “huyền thoại về Hồ chí Minh” do chính hắn tạo dựng ra; do bộ máy trí nô cung đình của hắn tô vẽ; do những cây bút người nước ngoài thiếu thông tin trung thực và cũng vô trách nhiệm nữa. Và nguy hiểm hơn nữa là do những cây bút, hiện nay đang được xếp vào loại chống đối, làm cho người dân tin rằng họ khổ là do “cán bộ” làm sai đường lối của Hồ. Vì thế, người dân hy vọng sẽ có sự sửa sai để thi hành đúng tư tưởng của Hồ là cái bánh vẽ khiến nhiều người trong họ đã dành cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời tin theo.
Thế là ngọn lửa cách mạng của người dân (nông dân) bị tụi mafia đỏ đương quyền dập tắt có sự tiếp tay của những cây bút đeo nhãn “chống đối”, tiếp tay bằng những “huyền thoại về Hồ chí Minh”.
Bản thân những “huyền thoại về Hồ chí Minh” của vài ngòi bút “chống đối” ở trong nước đã là nấm độc rồi, nó lại được bảo chứng bằng các báo, tạp chí ở hải ngoại mà người dân trong nước mặc nhiên tin tưởng đó là tiếng nói của các tổ chức chống cộng nên ăn những nấm độc đó không chút nghi ngờ.
Sự thiếu thông tin là điều không chấp nhận được của thời đại hiện nay. Nhưng điều cực kỳ nguy hiểm là dư thừa thông tin giả.
Cho nên tập đoàn mafia đỏ ngụy quyền Hà-nội hiện nay ra công ngăn nhiều bài viết tố cáo các tội ác của bọn chúng, nhưng không chặn hoàn toàn. Bởi vì nội dung nhiều bài đã chuyển tải nhiều điều có lợi cho chúng, đặc biệt là việc đề cao tên Việt gian Hồ chí Minh.
Chính vì thế mà đã xảy ra chuyện trái khoáy là những người bị áp bức căng khẩu hiệu “Đả đảo đảng” bên cạnh khẩu hiệu “tư tưởng chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm”!!!
Vậy phải làm như thế nào?
Xin nhắc lại công trình của giáo sư Lê Hữu Mục và cộng đồng người Việt hải ngoại, đã chứng minh Hồ chí Minh là tên đạo văn, buộc UNESCO phải hủy việc tổ chức vinh danh hắn là “danh nhân văn hóa thế giới”. Chuyện này đã rõ ràng như vậy mà một cây bút “chống đối” xuất sắc ở trong nước là ông Trần Khuê (một nhà nghiên cứu) vẫn tự hào vì Hồ được Liên Hiệp Quốc vinh danh là “danh nhân văn hóa thế giới” và ông ta đề xướng ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”!!!(?)
Một thí dụ nữa là tướng Trần Độ. Những bài viết của ông Trần Độ có tác dụng tố cáo tội ác của tập đoàn mafia đỏ đương quyền hiện nay, cả trong và ngoài nước. Rõ ràng là có tác động tích cực, khơi dậy được sự bất bình của nhiều người có thâm niên tham gia tổ chức cộng sản (tức mafia đỏ) để hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tụi thống trị hiện nay. Nhưng, ông Trần Độ vẫn tự hào về những tấm huy chương của Hồ trao tặng; tự hào về những chức vụ đã được ngụy quyền Hồ chí Minh ban cho; tự hào là “công dân loại 1, loại siêu” như ông tuyên bố. Như thế có nghĩa là đối với ông Trần Độ, họ Hồ vẫn là thần tượng, là chân lý. Ông Trần Độ chưa tính được xem bao nhiêu quân, dân miền Nam đã chết vì “tài cầm quân” của ông, theo lệnh Hồ, vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam; bao nhiêu thanh niên Bắc Việt Nam bị ông lùa vào lửa đạn bom của những người miền Nam Việt Nam chiến đấu tự vệ chống lại đạo quân xâm lược của ông. Chính những suối máu, núi xương và thác nước mắt của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng được cô đọng thành những tấm huân chương trên ngực ông và những ngôi sao cấp tướng của ngụy quân cộng sản. ở cương vị của ông, với trình độ lý luận của ông, có thể nào ông không hiểu những âm mưu thâm độc Việt gian của họ Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Về vị trí trong bộ máy ngụy quyền Hồ chí Minh, ông Nguyễn Hộ chưa bằng ông, nhưng ông ấy đã có đủ thông tin hơn ông để nhận đúng diện mạo thực của họ Hồ và cái tập đoàn bán nước của hắn nên ông Nguyễn Hộ đã có một thái độ vừa anh hùng vừa trung thực vừa có trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ đã tự chặt bỏ hơn nửa thế kỷ cuộc đời, giai đoạn xanh tươi nhất, vì nó đã bị nọc độc của con hổ mang bành Hồ chí Minh. Ông tự ý ra khỏi đảng mafia. Còn ông Trần Độ phải chờ bị đuổi khỏi “đảng” mà vẫn không nỡ rời.
Nếu ông Trần Độ kể cho mọi người (nhất là tuổi trẻ) biết ông và thế hệ của ông đã bị họ Hồ và cái bánh vẽ “chủ nghĩa cộng sản” lừa đảo, để hai tay ông nhuốm máu chính đồng bào mình, hai tay chỉ huy phá hoại chính tài sản cả vật chất cả tinh thần của nhân dân, đất nước Việt Nam như thế nào thì chính là ông đã tự gột rửa được hết sai lầm và càng được trân trọng, được ghi ơn.
Cùng góp phần giải quyết công việc nội bộ của dân tộc của đất nước Việt Nam thì càng cần minh định trắng, đen, sai, đúng.
Hết lòng ủng hộ, chân thành ủng hộ cuộc bút chiến của các ông Trần Khuê, Trần Độ v.v… đấu tranh với tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh hiện nay, nhưng không được lờ đi những cái mơ hồ, sai sự thực của các ông ấy. Bởi không minh bạch chuyện này, cứ đổ lỗi là việc vạch ra những sự thật lúc này làm ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết các lực lượng “chống cộng” hiện nay, sẽ không chỉ tác hại trước mắt mà cả lâu dài. Vì không phản đối nghĩa là chấp nhận.
Nếu chấp nhận cái giai đoạn ông Trần Độ xua ngụy quân cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, gây thương vong cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bắn giết nhân dân miền Nam Việt Nam, phá hoại làng mạc, thành thị và nếp sống của miền Nam Việt Nam không phải là trọng tội thì chẳng hóa ra những liệt sỹ QLVNCH, những thương phế binh của QLVNCH, những bà mẹ, trẻ em miền Nam Việt Nam v.v… bị bắn giết và sau tháng 4-1975, hàng triệu quân, dân, cán, chính của miền Nam Việt Nam bị tù đày, chết cả vài chục ngàn; hàng triệu gia đình bị đuổi đi lên miền núi hoang hóa cho chết dần chết mòn cả tinh thần, cả thân xác; hàng triệu người phải bỏ nước ra đi mà ít nhất cũng có cả 300 ngàn người nằm dưới biển Đông v.v… là không có ý nghĩa chăng?
Ông Trần Độ là người có công lớn với ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng cái công đó càng lớn bao nhiêu thì tội ác đối với nhân dân cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam càng lớn bấy nhiêu.
Ông Trần Độ vẫn tự hào về những công lao đó. Ủng hộ việc ông chỉ trích trích ngụy quyền Hà-nội hiện nay là vấn đề chấp nhận được. Nhưng nếu cố tình quên việc làm quá khứ của ông ta thì sự tuẩn tiết của những anh hùng liệt sỹ QLVNCH như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ; Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long v.v… và những mất mát của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam do cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ phát động sẽ giải thích như thế nào? Là đúng hay là sai!!!
Chẳng biết do thiếu thông tin hay vì một nguyên nhân bí ẩn nào đó (kiểu ném đá giấu tay) mà ở hải ngoại hiện nay có tình trạng khó hiểu: Vinh danh loạn cào cào. Ông Vũ đình Huỳnh mà cũng được nhắc đến còn nhiều hơn cả Tướng Nguyễn Khoa Nam, Anh Trần Văn Bá v.v… Có thể khẳng định rằng ông Vũ đình Huỳnh chẳng có chút công trạng nào với dân với nước.
Là một người công giáo, ông bỏ đạo đi theo “cộng sản”. ở giai đoạn đó, động cơ đi hoạt động của ông chắc chắn là muốn chống thực dân Pháp, nghĩa là có yêu nước. Như hàng ngàn hàng vạn thanh niên Việt Nam khác. Năm 1945, ông được đưa làm thư ký cho họ Hồ. Khi kháng chiến, ông được cho làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao. Đó là chức vụ trời ơi, đất hỡi vì lúc ấy có sứ quán nào đâu. Đến khi Nga-xô và Trung cộng công nhân và lập sứ quán, thì bọn chúng chủ yếu tự lo liệu lấy. Năm 1954 về Hà-nội thì ngoài sứ quán Nga-xô và Trung cộng thì có thêm ủy ban quốc tế giám sát đình chiến, với Canada, Ba-lan và Ấn-độ. Nhưng cái vụ lễ tân đâu có gì quan trọng như đề ra chính sách đối ngoại hay giao dịch gì. Việc của ông Vũ đình Huỳnh là lo những bữa tiệc, lo người phiên dịch, lo xe đưa đón, lo sắp xếp chỗ ngồi theo chức vụ của khách. Ông Huỳnh là một lão thành “cộng sản” chứ không phải là một cán bộ quan trọng. Ông bị “cộng sản” bỏ tù vì nằm trong “vụ án xét lại chống đảng”. Nếu cái gọi là “chống đảng” là có thật thì chỉ có nghĩa ông đi tù vì “đảng” của ông không thi hành đúng điều lệ “đảng”. Nghĩa là khi ông “bảo lưu ý kiến” về việc không tán thành nghị quyết 9, đúng “với điều lệ đảng”, thì ông bị đi tù. Tuy ở trong”đảng” thâm niên nhưng ông vẫn chẳng hiểu gì về “đảng và bác Hồ” của ông nên ông vẫn dại dột tin vào điều lệ, hệt như bây giờ mấy người còn tin vào hiến pháp của ngụy quyền Hà-nội vậy. Ngay việc “chống nghị quyết 9” thì cũng chỉ là muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo Nga-xô, nghĩa là làm nô lệ cho Nga-xô chứ có phải đòi hỏi cơm ăn, áo mặc cho dân, đòi hỏi thực thi dân chủ cho dân và v.v… đâu. Vậy nên ở trong nước đề cao ông Vũ đình Huỳnh đã là sự vô lý, thế mà ở hải ngoại cũng đề cao ông ấy nữa thì thật là không biết phải nói như thế nào!!!
Ngoài ông Nguyễn Hộ và mấy người trong nhóm của ông thì phải kể đến những người dũng cảm dám vì dân chủ và tự do lên tiếng, sau khi được tận mắt thấy miền Nam Việt Nam, mà Sài-gòn là tượng trưng cho mầm dân chủ, tự do và phồn vinh. Đó là nhà viết kịch bản sân khấu Lưu quang Vũ; nhà thơ Bùi minh Quốc; nhà văn nữ Dương thu Hương; phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu); nhà thơ Hữu Loan; nhà văn Phùng Quán; nhà báo Phùng gia Lộc; nhà thơ Trần Dần; ông Nguyễn đình Huy; bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… Nhiều người nổi tiếng trong phong trào “nhân văn – giai phẩm” hụt hơi trong cuộc chạy marathon đã bỏ cuộc hoặc ngã ngựa; một số giữ được trọn vẹn tấm lòng kẻ sỹ cho đến chết như Quang Dũng, Bùi quang Đoài v.v… Một số vì còn sống sót trong “vụ án xét lại chống đảng” dựa vào khí thế của những người nói trên đi tiên phong, đã được sự ủng hộ và chỗ dựa vững chắc là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, làm chiếc loa đánh động dư luận quốc tế rất hiệu quả, bấy giờ mới góp sức vạch tội ngụy quyền Hà-nội hiện nay. Cũng từ đó, dần dần có thêm nhiều lão thành “cộng sản” ngay thẳng, có cuộc sống gần dân hoặc trở lại làm dân tham gia.
Nhưng, cái vốn quý nhất cần được bảo vệ, ủng hộ, khuyến khích là lực lượng trẻ, tiêu biểu là luật sư Lê chí Quang, thương gia Nguyễn khắc Toàn, nhà báo Nguyễn vũ Bình… Những cái đầu tàu này sẽ lôi kéo tuổi trẻ trong nước nhập cuộc.
Nếu không đề cao tinh thần trách nhiệm khi đưa tin, cứ bỏ tuốt luốt tất cả chung một rọ, có lẽ đến lúc nào đó, tên khát máu Nguyễn hà Phan cũng sẽ được đề cao như là nhân vật “đấu tranh cho dân chủ”, vì cách đây vài năm cuộc đấu đá nội bộ mafia đỏ khiến Nguyễn hà Phan bị lột chức ủy viên chính bộ mafia đỏ.
Rồi nữa, nếu Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn v.v… được đề cao như là một loại “yêu nước” thì chắc những kẻ ngã ngựa trong đấu đá nội bộ bọn mafia đỏ như Tố Hữu, Nguyễn chí Thanh, Trần Phương, Trần Quỳnh, Cao sĩ Kiêm v.v… cũng sẽ lần lượt được đề cao?!!!
Cách đây một năm thôi, ông Trần Khuê, cây bút chống đối trong nước còn “ca ngợi”, “trích dẫn” lời Lê khả Phiêu mà không thấy rằng hắn đang học múa lại bài võ của họ Hồ theo kiểu “voi đú chuột chù đú theo”, nghĩa là nói thì ra vẻ lắm, mà làm thì lại nâng tên trùm tham nhũng Phạm thế Duyệt lên ngay bên hắn, ở vị trí thứ hai!!! Ngay sắc sảo như nhà văn Dương thu Hương cũng trật lất khi nhận xét về tên con hoang Nông đức Mạnh!
Nói chung, cộng đồng người Việt ở hải ngoại được mặc nhiên thừa nhận là cái mộc bảo chứng “mác chống đối” cho những cây bút chống đối ở trong nước. Nhưng nói riêng, vẫn có những cá nhân hoặc vài ba nhóm nào đấy thuộc loại “phi điểu phi thú”. Xưa “chống cộng” hời hợt, nay “chống cộng” với lập trường mơ hồ, giả tỉnh giả mê ăn tiền. Xin đưa một thí dụ cụ thể: Võ nguyên Giáp, đại tướng ngụy quân cộng sản, bị đồng bọn cho về vườn, nay bày đặt viết hồi ký. Ấy thế mà ở hải ngoại đã có ngòi bút nâng bi rồi. Ca ngợi “thịnh tình của đại tướng Võ nguyên Giáp với văn nghệ” là ân cần trích dẫn: “Một chiến sỹ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”, đã có những câu thơ:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà-nội dáng kiều thơm.
Rồi chợt nhớ rằng năm 1956, Quang Dũng bị Tố Hữu phê phán bài thơ “Tây tiến” đó và bị đánh không ngóc đầu lên được, không được sáng tác cho đến chết! (Xin lưu ý bạn đọc rằng, Quang Dũng giỏi cả thơ, văn, họa và cả võ nữa). Cũng năm 1956 đó thì Võ nguyên Giáp đang ở đỉnh cao của vinh quang. Vậy mà Giáp có thèm biết đến Quang Dũng là cái gì đâu. Còn sau năm 1970, Giáp ở thế lép vế đến mức Phạm huy Thông còn dám cắm cho Giáp một cặp sừng, vậy mà Giáp dám đưa tay đỡ cho tên trung tá, bác sỹ riêng của Giáp, được về giữ chức giám đốc sở y tế Hà-nội, can tội dùng quyền cưỡng bức một nữ y tá trẻ ở bệnh viện St. Paul (Hà-nội) phải hiến thân cho hắn. Nhờ Giáp can thiệp, tên trung tá vẫn nguyên chức, chỉ có cô y tá bị đuổi việc.
Chuyện rành rành như thế, mà “ngòi bút nâng bi” cố bào chữa cho Giáp rằng: “Ông đại tướng không có thẩm quyền gì trong việc phê phán văn học”.
Viết ngu đến như thế mà cũng dám cầm bút! Vậy trong hồi ký, Giáp trích bốn câu thơ trên của Quang Dũng và khen, là đang làm cái gì? Có phải phê phán văn học không?
Lý luận kiểu đó nên mới dám viết về việc trưa ngày 30-4-1975, tên nằm vùng Trịnh công Sơn đã ôm đàn lên đài phát thanh của ngụy quân cộng sản hát bài hắn sáng tác, mang tên “nối vòng tay lớn”, rằng: “Thật ra anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã”!!!
Chính những ngòi bút “thùng rỗng kêu to”, có căn “nịnh bợ” đó, đã trộn lẫn thật giả, tô hồng, bóp méo làm nhiễu loạn thông tin, phí giấy phí mực, công sức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Rồi sợ mọi người biết tẩy của Giáp là thằng hèn, tận sau khi Quang Dũng đã về trời từ lâu, và chuyện “nhân văn – giai phẩm” đã thành cổ tích, Giáp mới lưu manh đưa Quang Dũng vào “đánh bóng” cho tập hồi ký, hòng lừa thế hệ trẻ, “ngòi bút nịnh ở Paris” cố công bào chữa hộ “ông không phải là người đãi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc gì phải đãi bôi.” Ghê không! Giọng lưỡi hệt vệ sỹ của Giáp.
“Văn là người”, đọc những dòng trên có thể biết đó là hạng người như thế nào!!!
Cho nên cần cẩn thận khi đọc, khi đề cao những nhân vật chống đối trong nước. Đồng thời nên vô hiệu hóa những ngòi bút bẩn, xin cơm thừa canh cặn của mafia đỏ, đang múa may ở hải ngoại.
Việc nâng bi, vinh danh ồn ào bộ mặt đại Việt gian như Hồ, bộ mặt đao phủ Võ nguyên Giáp, Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v…; những bộ mặt trí nô cung đình mafia đỏ Cù huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh; bộ mặt mật vụ, phản bội “xanh vỏ đỏ lòng” Trịnh công Sơn; cho đến Nguyễn Duy, kẻ đi đâu cũng đọc bài thơ hắn sáng tác, đại ý trong khi ngụy quân cộng sản vào xâm lăng miền Nam Việt Nam, hắn bị một “tên biệt động quân” bắn, chút xíu hắn bị bể sọ. Hắn cầm súng định bắn lại, nhưng rồi hắn chỉ đuổi để bắt sống (vì nhân đạo). Vào nhà người ta ăn cướp mà phách lối thế đấy!!! Vậy mà, một số “phóng viên” ở hải ngoại đã phỏng vấn cho hắn ăn nói mất dạy như vậy mà giả mù, giả điếc đề cao! Thật khó hiểu!!!
Thử đặt câu hỏi, về vai vế Võ nguyên Giáp còn trên Nguyễn chí Thanh, vậy mà tại sao Giáp lại chịu để Thanh “nhéo tai, bóp mũi” như thế? Về sau này, các đàn em cấp dưới của Giáp cũng “khinh” Giáp?
Bây giờ đã có nhiều bằng chứng để lý giải chuyện đó. Một là, Giáp khi còn đi học, tham gia biểu tình bị thực dân Pháp bắt và kết án tù 18 tháng. Nhưng mới ở có ba tháng thì được tha lại còn tiếp tục đi học, vì Giáp đã “đầu hàng”, đã làm đơn xin “mẫu quốc” cho học để phục vụ “mẫu quốc” và vì thế được tên chánh mật thám của thực dân Pháp ở Đông-dương lúc ấy, là Marti, nhận làm con nuôi. Hai là, có thể đi đến kết luận là khi Hồ bảo Giáp bỏ học trường võ bị Hoàng-phố (Tàu) về giúp Phùng chí Kiên trong trung đội vũ trang tuyên truyền, thì, dù là theo gợi ý của Hồ, nhưng Giáp là kẻ trực tiếp bán Phùng chí Kiên cho mật thám Pháp. Còn chuyện bê bối, đĩ bợm, lãng phí quan cách v.v… của Giáp thì khỏi nói, đúng là “học trò giỏi” của họ Hồ. Và, tài cầm quân của Giáp thì: chiến dịch biên giới 1950, có đại tướng Trần Canh của Trung cộng chỉ huy giùm; trận Điện-biên-phủ có nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng chỉ huy hộ. Riêng trận Vĩnh-yên 1951, Giáp đích thân chỉ huy thì giống như Tết Mậu Thân (1968) sau này vậy. Đấy chính là những hòn sỏi trong miệng Giáp, khiến Giáp lúng búng, không dám đụng. Và, vì thế, dù Giáp có công phò tá Hồ nhưng Hồ vẫn không thể ban cho Giáp cái lon “nguyên soái”.
Thời kỳ phong trào “nhân văn – giai phẩm”, Võ nguyên Giáp đang là ngôi sao sáng và cũng như Phạm văn Đồng, được mấy anh “nâng bi” ca ngợi là người yêu quý trí thức. Thế nhưng Giáp không hề “an ủi” một ai, chứ đâu cần phải che chở, từ Hoàng Cầm, Trần Dần đến Quang Dũng, tuy tất cả đều ở dưới quyền Giáp. Cũng như thế, các đại tá chánh văn phòng; cục trưởng quân báo của Giáp không hề được Giáp “minh oan” khi họ bị Nguyễn chí Thanh cho bắt.
Tại sao? Bởi Giáp biết rằng tất cả những việc ấy đều do lệnh của Hồ, chứ không phải “không có thẩm quyền gì trong phê phán văn học” như nhà báo “thùng rỗng” ở Paris đã viết.
Cái sự ngậm miệng của Giáp cho đến tận năm 2000 mới dám nhớ tí chút đến Nguyễn Tuân, Quang Dũng, trong hồi ký, mà lại nhắc đến những húy kỵ của thời đánh “nhân văn – giai phẩm”, như bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng, như “Tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, rõ ràng là thuở đó Giáp phải bị “sợ đến cấm khẩu” luôn. Kẻ đó, ngoài Hồ, làm Giáp sợ còn là ai nữa?!!!
Cho nên phải thấy Hồ mới là “đầu não” gây nên tội ác về cái gọi là đánh “nhân văn – giai phẩm”. Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Tố Hữu chỉ là những tên đao phủ thừa hành trong vụ án “nhân văn – giai phẩm mà thôi.
Lại nữa, thử đặt câu hỏi: Tại sao Võ nguyên Giáp cũng né không đả động đến cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng”, mà trong đó có biết bao đàn em, trong ngụy quân cộng sản của Giáp dính trấu, như tướng Đặng kim Giang, tướng Nguyễn văn Vịnh, tướng Lê Liêm, các đại tá Lê vinh Quốc, Đỗ đức Kiên, trung tá Văn Doãn v.v…
Câu trả lời cũng giống như trên, nghĩa là Võ nguyên Giáp biết rằng Lê đức Thọ chỉ thừa hành khẩu lệnh của Hồ để trừng trị nhóm “chống nghị quyết 9 xin bảo lưu ý kiến”, bị chụp cho cái nón cối “vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”.
Vì thế, những nạn nhân trong vụ “nhân văn – giai phẩm” cũng giống hệt những người bị quy tội “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”, khi bị bắt thì kêu oan mà chẳng đi tới đâu. Đến khi được tha thì cũng mập mập mờ mờ. Mấy đời “tổng bí thư” đều tránh né nói rõ nguyên nhân, chỉ muốn cho chìm xuồng trong yên lặng!
Một câu hỏi nữa lại được đặt ra: Tại sao người ta lại kết tội Lê đức Thọ và Lê Duẩn, thậm chí người ta còn “chứng minh” rằng họ Hồ cũng là nạn nhân của sự lộng quyền của hai anh chàng họ Lê ở trên đã có lý giải, nay xin nói rõ hơn.
Không phải tất cả đều mơ hồ về sự nhúng tay của Hồ mà Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ. Bởi vì người ta vẫn tự hào cái quá khứ kháng chiến chống Pháp, mà không nhìn ra hoặc không đủ can đảm để nhìn ra rằng cái gọi là kháng chiến chống Pháp từ đầu 1952 thực tế chỉ là nằm trong lịch trình thay thầy đổi chủ. Nghĩa là thay thực dân Pháp bằng thực dân đỏ Nga-xô, mà kết quả đã cho thấy thực dân đỏ còn tàn bạo gấp vạn lần thực dân Pháp. Một điều rõ ràng nhất, là nhiều trí thức do Pháp đào tạo đã trở thành những người yêu nước nồng nàn như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, bác sỹ Trần Văn Lai v.v… Còn trí thức do “thực dân đỏ” (cả Nga-xô và Trung cộng) đào tạo thì đều thành lũ gia nô hay nói như Dương thu Hương là “trí thức mang trái tim chó”, hay nói như Mao trạch Đông là “không bằng cục cứt”. Và ngay những trí thức của Pháp đào tạo, đã có những lúc sống đẹp và hào hùng, khi kết hợp với thực dân đỏ cũng thành hèn, thành gia nô. Những điển hình là Phan Anh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Huyên, Hoàng minh Giám, Kha vạng Cân, Trần đăng Khoa, Nghiêm xuân Yêm, bác sỹ Phạm khắc Quảng, bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư Hoàng xuân Nhị, Bùi Kỷ, Phạm văn Bạch, luật sư Nguyễn thành Vĩnh và v.v… nhiều lắm, gần như trọn vẹn những ai chót mắc vào lưới nhện của Hồ (đại diện của thực dân đỏ).
Nếu thẳng thắn nhìn vào bộ mặt Việt gian của Hồ thì có nghĩa là phải chặt bỏ hết cả cuộc đời, phải thừa nhận tội đồng lõa với Hồ. Điều này không phải dễ dàng. Phải có dũng cảm như ông Nguyễn Hộ mới dám đoạn tuyệt với cái quá khứ đó.
Cho nên (dù là nạn nhân của Hồ) người ta vẫn phải đề cao Hồ, cố nhắm mắt bỏ qua mọi bằng chứng tội ác rành rành của Hồ mà họ có phần góp sức, để tấn công vào Lê Duẩn và Lê đức Thọ, cũng như tụi đầu nậu sau này. Họ không thấy rằng hầu hết nhân dân Việt Nam bị Hồ lừa, ở các mức độ khác nhau. Cho nên bị lừa nhiều hay bị lừa ít chỉ biểu thị là nạn nhân nhiều hay nạn nhân ít trong các hành động tội ác của Hồ mà thôi. Sau này khi nhắm mắt xuôi tay, có muốn nói, muốn viết cũng chẳng được. Lịch sử sẽ phán xét công bằng và sáng suốt.
Nhưng, cái tai hại cực kỳ nghiêm trọng cho toàn dân Việt Nam lúc này lại chính là việc tiếp tay với tập đoàn mafia đỏ đương quyền đề cao họ Hồ.
Việc làm này, như trên đã phân tích, đã và sẽ làm chững lại phong trào vùng lên của nông dân, vì họ hy vọng sẽ có sửa sai để đi đúng con đường của Hồ. Bọn cơ hội đi hai hàng ở hải ngoại lại làm nhiễu thông tin để sức mạnh dư luận quốc tế bị lái lệch hướng. Còn tập đoàn mafia đỏ cầm quyền, cứ núp sau cái thây ma của họ Hồ (mà ngay những kẻ chống đối chúng và một số cây bút hải ngoại vẫn đề cao; một số báo, tạp chí giúp chuyển tải những sự đề cao Hồ có tính xuyên tạc đó) để “đại hội này sửa sai”, rồi “lại đại hội sau sửa sai” và cứ thế, người dân cứ việc chờ ăn bánh vẽ, còn chúng thay nhau làm “tổng bí thư”. Thí dụ cụ thể: Đỗ Mười nghe mãi câu chuyện tham nhũng của Phạm thế Duyệt, Nguyễn công Tạn, Võ văn Kiệt v.v… Mười lui cho Lê khả Phiêu, ấy thế mà Phạm thế Duyệt lại được Phiêu nâng lên thành nhân vật số 2; và băng của Phiêu xuất hiện một cây tham nhũng mới: tên trung tướng Phạm văn Trà. Đến khi Phiêu lui thì lại đến Nông đức Mạnh lên, những bộ mặt tham nhũng cũ không bị đụng cọng lông chân như Kiệt, Tạn, Duyệt, Cao sĩ Kiêm, Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, Lê xuân Tùng v.v… Riêng Phạm thế Duyệt, không nằm trong trung ương mafia đỏ nữa, nhưng vẫn ngồi cái ghế loại cha bố của xã hội chủ nghĩa đỏ. Đó là Duyệt giữ chức chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc trung ương!!! Và, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam (mà cũng là cả thế giới), nhân vật loại 2 của Bắc triều là Lý Bằng đến Việt Nam, mà cả ba đời “tổng bí thư mafia đỏ Việt Nam” ra sân bay quỳ lạy “sứ thiên triều”. Đó là ba tên Việt gian trong băng đảng của họ Hồ, lần lượt là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, những đứa bán đất đai và biển của Việt Nam cho ba Tàu cộng, đúng như Hồ đã làm khi hắn còn chưa bị bắt giam ở hỏa ngục (âm ty).
Xin hỏi các cây bút “chống đối” ở trong nước, đã dũng cảm tố giác tội bán nước của bè lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Trần đức Lương, Nguyễn văn An v.v… sao không thấy rằng chúng đi đúng đường lối của Hồ đấy. Sao kết tội chúng mà không kết tội Hồ?
Cái chưa bao giờ hiện hữu là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” thì nhìn ra và mô tả cứ như mấy nhà văn, nha thơ ba Tàu ngày xưa viết về “Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện”; còn tội ác bán nước, giết dân, đụ bậy, tham nhũng, lãng phí, đạo văn của Hồ thì còn bút tích; còn số liệu, tên người; còn nhân chứng; còn chứng cớ, hình ảnh; còn bằng chứng thì lại giả vờ hoa mắt không chịu nhìn ra!!!
Và, một điều trái khoáy nữa là chính Hồ, một thằng cha dám làm mọi việc “Trời không dung, Đất không tha”; một thằng tham danh, tham quyền, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích; một thằng tự đề cao một cách lố bịch và vô liêm sỉ dám phét lác là sẽ “”đưa năm châu đến đại đồng”, mà bản thân hắn không dám nhận mình đẻ ra “chủ nghĩa” gì. Thế mà có người lại nhìn ra “dê đực của Tô Vũ đẻ dê con”. Thật là đại tài nhưng lại đại tai cho nhân dân Việt Nam, nói chung!!!Bài 13
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Tội ác của Hồ giáng lên đầu nhân dân cả nước Việt Nam, từ số liệu người chết, do chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam mà Hồ phát động được trưng ra bởi tên trung tướng ngụy quân cộng sản Nguyễn đình Ước; số liệu người chết vì “cải cách ruộng đất”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” cũng đã vài triệu; chưa kể đến tụi mafia đỏ không cho phép thống kê số người chết đói, chết bệnh vì thiếu thuốc men v.v… Tất cả những cái chết đó đều bắt nguồn từ âm mưu của Hồ lèo lái chiến tranh giải phóng dân tộc, do Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội Khóa 1 lãnh đạo, thành chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ.
Cũng vì phục vụ chiến tranh bành trướng của thực dân đỏ mà Hồ đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng, đánh thức dậy dã tâm cướp đất, cướp biển của Tàu lục địa để mở đường cho chúng tiếp tục chính sách bá quyền bành trướng và làm mẫu mực bán nước cho đến bây giờ là bè lũ Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Lê khả Phiêu, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nông đức Mạnh noi theo.
Những tội ác trên là rõ ràng, không thể chối cãi và nhiều người đã công khai lên án. Nhưng, một tội ác khủng khiếp mà hậu quả của nó chưa biết bao giờ chấm dứt, đó là Hồ sử dụng tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn phá tan truyền thống nhân ái, liêm chính, hỷ xả của nhân dân Việt Nam.
Nhìn vào bức tranh xã hội Việt Nam hiện nay, dù là đã bị sàng lọc qua ngòi bút của chính nhân sự của ngụy quyền Hà-nội, thì thật là khủng khiếp. Tham nhũng, đĩ điếm, nếp sống vô luân, vô liêm sỉ, cơ hội, mánh mung v.v… không chỉ ở cái như xưa kia gọi là “tầng lớp hạ lưu”, mà nó thành lối sống của ngay chính tập đoàn thống trị, tầng lớp trí thức cho đến cả các hội đoàn tôn giáo (quốc doanh), cả thành thị, cả nông thôn, cả miền núi và cũng đang rục rịch ra hoa kết trái ngay trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại!!!
Một vài ngòi bút ở hải ngoại đã và đang viết sách chửi cả dân tộc Việt Nam, y như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, chửi cả làng Vũ-đại vậy. Và từ đó thì Chí Phèo nổi tiếng có thể nói là hạng nhất của làng Vũ-đại. Trong khi đó, những người bình thường, hiền hòa, an phận không muốn nổi danh – dù thơm hay thối – vẫn bốn mùa chăm lo cày cấy; vẫn đều đặn tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông chùa. Và, khi có giặc thì cũng góp máu xương giữ làng, giữ nước. Có nghĩa là, đứng ở góc độ người dân (không muốn chơi trội, không có máu bon chen, cơ hội để cố ngoi lên làm lãnh tụ) trong đó có cả Thị Nở, thì làng Vũ-đại vẫn là cái gì đó thân thương quyện vào máu thịt, quyện vào từng hơi thở. Chỉ có duy nhất Chí Phèo phải mượn rượu để đủ can đảm chửi đổng cả cha, cả mẹ, cả trời, cả đất và cuối cùng là cả làng Vũ-đại!
Sự tồn tại của dân tộc Việt Nam đến tận ngày nay chẳng lẽ là do “thiếu tự hào dân tộc”, “đố kỵ ghen ghét nhau, “tôn thờ bạo lực và ác độc đối với nhau” và v.v… Người có nhận xét và sử dụng chữ nghĩa đó chính là me-xừ Nguyễn gia Kiểng với cái tên cuốn sách cũng đặt “lộn tùng phèo” là “Tổ quốc ăn năn”. Lá gan to như vậy, phải ra đến hải ngoại mới dám lớn lối, còn lúc trong vòng kiềm tỏa của mafia đỏ thì nó co lại có phần còn nhỏ hơn gan muỗi. Có lẽ cái tâm lý ấy dẫn dắt nên bây giờ nó nổ tung ra.
Nêu lên cái hiện tượng “Âu dương Phong luyện chưởng” trong làng viết ở hải ngoại, để thấy đấy cũng là nạn nhân của sự phá hoại các giá trị tinh thần của Việt Nam do tên đại gian, đại ác Hồ chí Minh thực hiện, còn hệ lụy đến nay và ra cả hải ngoại!
Trong tình hình hiện nay, nhiều ngòi bút bị mất phương hướng nên bày ra cái trò “bát quái trận đồ”, mà tập đoàn mafia đỏ cố tình cổ võ và chỉ đạo, để bút mực, công sức ở hải ngoại phí phạm vào cái trò tranh luận “kiểu lá diêu bông là cái gì” mà quên rằng chúng ta chỉ có một cách duy nhất, một khả năng trội hẳn là dùng ngòi bút để vạch rõ tội ác của tập đoàn Việt gian bán nước Hồ chí Minh mà điểm quan trọng nhất là chính tên Việt gian Hồ chí Minh!!!
Nhân dân trong nước, nhất là nông dân đã bắt đầu vùng lên, lan rộng cả ba miền Trung, Nam và Bắc Việt Nam. Những nơi được coi là “hang ổ của cách mạng mafia đỏ” lại là nơi mâu thuẫn gay gắt nhất như Thanh-hóa, Thái-bình, Bến-tre v.v… Nhưng chỉ đến thế thì chững lại.
Tại sao vậy?
- Tất nhiên là bị ngụy quyền cộng sản Hà-nội dùng mọi âm mưu vừa đàn áp, vừa dụ khị.
- Tại sao chúng lại dụ khị được?
Chính nhờ cái bóng ma của Hồ chí Minh vậy!!!
Nhân dân đã bị nhồi nhét từ nhiều năm vào đầu những “huyền thoại về Hồ chí Minh” do chính hắn tạo dựng ra; do bộ máy trí nô cung đình của hắn tô vẽ; do những cây bút người nước ngoài thiếu thông tin trung thực và cũng vô trách nhiệm nữa. Và nguy hiểm hơn nữa là do những cây bút, hiện nay đang được xếp vào loại chống đối, làm cho người dân tin rằng họ khổ là do “cán bộ” làm sai đường lối của Hồ. Vì thế, người dân hy vọng sẽ có sự sửa sai để thi hành đúng tư tưởng của Hồ là cái bánh vẽ khiến nhiều người trong họ đã dành cả cuộc đời hoặc phần lớn cuộc đời tin theo.
Thế là ngọn lửa cách mạng của người dân (nông dân) bị tụi mafia đỏ đương quyền dập tắt có sự tiếp tay của những cây bút đeo nhãn “chống đối”, tiếp tay bằng những “huyền thoại về Hồ chí Minh”.
Bản thân những “huyền thoại về Hồ chí Minh” của vài ngòi bút “chống đối” ở trong nước đã là nấm độc rồi, nó lại được bảo chứng bằng các báo, tạp chí ở hải ngoại mà người dân trong nước mặc nhiên tin tưởng đó là tiếng nói của các tổ chức chống cộng nên ăn những nấm độc đó không chút nghi ngờ.
Sự thiếu thông tin là điều không chấp nhận được của thời đại hiện nay. Nhưng điều cực kỳ nguy hiểm là dư thừa thông tin giả.
Cho nên tập đoàn mafia đỏ ngụy quyền Hà-nội hiện nay ra công ngăn nhiều bài viết tố cáo các tội ác của bọn chúng, nhưng không chặn hoàn toàn. Bởi vì nội dung nhiều bài đã chuyển tải nhiều điều có lợi cho chúng, đặc biệt là việc đề cao tên Việt gian Hồ chí Minh.
Chính vì thế mà đã xảy ra chuyện trái khoáy là những người bị áp bức căng khẩu hiệu “Đả đảo đảng” bên cạnh khẩu hiệu “tư tưởng chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm”!!!
Vậy phải làm như thế nào?
Xin nhắc lại công trình của giáo sư Lê Hữu Mục và cộng đồng người Việt hải ngoại, đã chứng minh Hồ chí Minh là tên đạo văn, buộc UNESCO phải hủy việc tổ chức vinh danh hắn là “danh nhân văn hóa thế giới”. Chuyện này đã rõ ràng như vậy mà một cây bút “chống đối” xuất sắc ở trong nước là ông Trần Khuê (một nhà nghiên cứu) vẫn tự hào vì Hồ được Liên Hiệp Quốc vinh danh là “danh nhân văn hóa thế giới” và ông ta đề xướng ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”!!!(?)
Một thí dụ nữa là tướng Trần Độ. Những bài viết của ông Trần Độ có tác dụng tố cáo tội ác của tập đoàn mafia đỏ đương quyền hiện nay, cả trong và ngoài nước. Rõ ràng là có tác động tích cực, khơi dậy được sự bất bình của nhiều người có thâm niên tham gia tổ chức cộng sản (tức mafia đỏ) để hưởng ứng cuộc đấu tranh chống tụi thống trị hiện nay. Nhưng, ông Trần Độ vẫn tự hào về những tấm huy chương của Hồ trao tặng; tự hào về những chức vụ đã được ngụy quyền Hồ chí Minh ban cho; tự hào là “công dân loại 1, loại siêu” như ông tuyên bố. Như thế có nghĩa là đối với ông Trần Độ, họ Hồ vẫn là thần tượng, là chân lý. Ông Trần Độ chưa tính được xem bao nhiêu quân, dân miền Nam đã chết vì “tài cầm quân” của ông, theo lệnh Hồ, vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam; bao nhiêu thanh niên Bắc Việt Nam bị ông lùa vào lửa đạn bom của những người miền Nam Việt Nam chiến đấu tự vệ chống lại đạo quân xâm lược của ông. Chính những suối máu, núi xương và thác nước mắt của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng được cô đọng thành những tấm huân chương trên ngực ông và những ngôi sao cấp tướng của ngụy quân cộng sản. ở cương vị của ông, với trình độ lý luận của ông, có thể nào ông không hiểu những âm mưu thâm độc Việt gian của họ Hồ và cái tổ chức mafia đỏ của hắn. Về vị trí trong bộ máy ngụy quyền Hồ chí Minh, ông Nguyễn Hộ chưa bằng ông, nhưng ông ấy đã có đủ thông tin hơn ông để nhận đúng diện mạo thực của họ Hồ và cái tập đoàn bán nước của hắn nên ông Nguyễn Hộ đã có một thái độ vừa anh hùng vừa trung thực vừa có trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Hộ đã tự chặt bỏ hơn nửa thế kỷ cuộc đời, giai đoạn xanh tươi nhất, vì nó đã bị nọc độc của con hổ mang bành Hồ chí Minh. Ông tự ý ra khỏi đảng mafia. Còn ông Trần Độ phải chờ bị đuổi khỏi “đảng” mà vẫn không nỡ rời.
Nếu ông Trần Độ kể cho mọi người (nhất là tuổi trẻ) biết ông và thế hệ của ông đã bị họ Hồ và cái bánh vẽ “chủ nghĩa cộng sản” lừa đảo, để hai tay ông nhuốm máu chính đồng bào mình, hai tay chỉ huy phá hoại chính tài sản cả vật chất cả tinh thần của nhân dân, đất nước Việt Nam như thế nào thì chính là ông đã tự gột rửa được hết sai lầm và càng được trân trọng, được ghi ơn.
Cùng góp phần giải quyết công việc nội bộ của dân tộc của đất nước Việt Nam thì càng cần minh định trắng, đen, sai, đúng.
Hết lòng ủng hộ, chân thành ủng hộ cuộc bút chiến của các ông Trần Khuê, Trần Độ v.v… đấu tranh với tập đoàn Việt gian Nông đức Mạnh hiện nay, nhưng không được lờ đi những cái mơ hồ, sai sự thực của các ông ấy. Bởi không minh bạch chuyện này, cứ đổ lỗi là việc vạch ra những sự thật lúc này làm ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết các lực lượng “chống cộng” hiện nay, sẽ không chỉ tác hại trước mắt mà cả lâu dài. Vì không phản đối nghĩa là chấp nhận.
Nếu chấp nhận cái giai đoạn ông Trần Độ xua ngụy quân cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, gây thương vong cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bắn giết nhân dân miền Nam Việt Nam, phá hoại làng mạc, thành thị và nếp sống của miền Nam Việt Nam không phải là trọng tội thì chẳng hóa ra những liệt sỹ QLVNCH, những thương phế binh của QLVNCH, những bà mẹ, trẻ em miền Nam Việt Nam v.v… bị bắn giết và sau tháng 4-1975, hàng triệu quân, dân, cán, chính của miền Nam Việt Nam bị tù đày, chết cả vài chục ngàn; hàng triệu gia đình bị đuổi đi lên miền núi hoang hóa cho chết dần chết mòn cả tinh thần, cả thân xác; hàng triệu người phải bỏ nước ra đi mà ít nhất cũng có cả 300 ngàn người nằm dưới biển Đông v.v… là không có ý nghĩa chăng?
Ông Trần Độ là người có công lớn với ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng cái công đó càng lớn bao nhiêu thì tội ác đối với nhân dân cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam càng lớn bấy nhiêu.
Ông Trần Độ vẫn tự hào về những công lao đó. Ủng hộ việc ông chỉ trích trích ngụy quyền Hà-nội hiện nay là vấn đề chấp nhận được. Nhưng nếu cố tình quên việc làm quá khứ của ông ta thì sự tuẩn tiết của những anh hùng liệt sỹ QLVNCH như các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ; Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long v.v… và những mất mát của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam do cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam của Hồ phát động sẽ giải thích như thế nào? Là đúng hay là sai!!!
Chẳng biết do thiếu thông tin hay vì một nguyên nhân bí ẩn nào đó (kiểu ném đá giấu tay) mà ở hải ngoại hiện nay có tình trạng khó hiểu: Vinh danh loạn cào cào. Ông Vũ đình Huỳnh mà cũng được nhắc đến còn nhiều hơn cả Tướng Nguyễn Khoa Nam, Anh Trần Văn Bá v.v… Có thể khẳng định rằng ông Vũ đình Huỳnh chẳng có chút công trạng nào với dân với nước.
Là một người công giáo, ông bỏ đạo đi theo “cộng sản”. ở giai đoạn đó, động cơ đi hoạt động của ông chắc chắn là muốn chống thực dân Pháp, nghĩa là có yêu nước. Như hàng ngàn hàng vạn thanh niên Việt Nam khác. Năm 1945, ông được đưa làm thư ký cho họ Hồ. Khi kháng chiến, ông được cho làm vụ trưởng vụ lễ tân bộ ngoại giao. Đó là chức vụ trời ơi, đất hỡi vì lúc ấy có sứ quán nào đâu. Đến khi Nga-xô và Trung cộng công nhân và lập sứ quán, thì bọn chúng chủ yếu tự lo liệu lấy. Năm 1954 về Hà-nội thì ngoài sứ quán Nga-xô và Trung cộng thì có thêm ủy ban quốc tế giám sát đình chiến, với Canada, Ba-lan và Ấn-độ. Nhưng cái vụ lễ tân đâu có gì quan trọng như đề ra chính sách đối ngoại hay giao dịch gì. Việc của ông Vũ đình Huỳnh là lo những bữa tiệc, lo người phiên dịch, lo xe đưa đón, lo sắp xếp chỗ ngồi theo chức vụ của khách. Ông Huỳnh là một lão thành “cộng sản” chứ không phải là một cán bộ quan trọng. Ông bị “cộng sản” bỏ tù vì nằm trong “vụ án xét lại chống đảng”. Nếu cái gọi là “chống đảng” là có thật thì chỉ có nghĩa ông đi tù vì “đảng” của ông không thi hành đúng điều lệ “đảng”. Nghĩa là khi ông “bảo lưu ý kiến” về việc không tán thành nghị quyết 9, đúng “với điều lệ đảng”, thì ông bị đi tù. Tuy ở trong”đảng” thâm niên nhưng ông vẫn chẳng hiểu gì về “đảng và bác Hồ” của ông nên ông vẫn dại dột tin vào điều lệ, hệt như bây giờ mấy người còn tin vào hiến pháp của ngụy quyền Hà-nội vậy. Ngay việc “chống nghị quyết 9” thì cũng chỉ là muốn Việt Nam đi vào quỹ đạo Nga-xô, nghĩa là làm nô lệ cho Nga-xô chứ có phải đòi hỏi cơm ăn, áo mặc cho dân, đòi hỏi thực thi dân chủ cho dân và v.v… đâu. Vậy nên ở trong nước đề cao ông Vũ đình Huỳnh đã là sự vô lý, thế mà ở hải ngoại cũng đề cao ông ấy nữa thì thật là không biết phải nói như thế nào!!!
Ngoài ông Nguyễn Hộ và mấy người trong nhóm của ông thì phải kể đến những người dũng cảm dám vì dân chủ và tự do lên tiếng, sau khi được tận mắt thấy miền Nam Việt Nam, mà Sài-gòn là tượng trưng cho mầm dân chủ, tự do và phồn vinh. Đó là nhà viết kịch bản sân khấu Lưu quang Vũ; nhà thơ Bùi minh Quốc; nhà văn nữ Dương thu Hương; phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu); nhà thơ Hữu Loan; nhà văn Phùng Quán; nhà báo Phùng gia Lộc; nhà thơ Trần Dần; ông Nguyễn đình Huy; bác sỹ Nguyễn đan Quế v.v… Nhiều người nổi tiếng trong phong trào “nhân văn – giai phẩm” hụt hơi trong cuộc chạy marathon đã bỏ cuộc hoặc ngã ngựa; một số giữ được trọn vẹn tấm lòng kẻ sỹ cho đến chết như Quang Dũng, Bùi quang Đoài v.v… Một số vì còn sống sót trong “vụ án xét lại chống đảng” dựa vào khí thế của những người nói trên đi tiên phong, đã được sự ủng hộ và chỗ dựa vững chắc là cộng đồng người Việt ở hải ngoại, làm chiếc loa đánh động dư luận quốc tế rất hiệu quả, bấy giờ mới góp sức vạch tội ngụy quyền Hà-nội hiện nay. Cũng từ đó, dần dần có thêm nhiều lão thành “cộng sản” ngay thẳng, có cuộc sống gần dân hoặc trở lại làm dân tham gia.
Nhưng, cái vốn quý nhất cần được bảo vệ, ủng hộ, khuyến khích là lực lượng trẻ, tiêu biểu là luật sư Lê chí Quang, thương gia Nguyễn khắc Toàn, nhà báo Nguyễn vũ Bình… Những cái đầu tàu này sẽ lôi kéo tuổi trẻ trong nước nhập cuộc.
Nếu không đề cao tinh thần trách nhiệm khi đưa tin, cứ bỏ tuốt luốt tất cả chung một rọ, có lẽ đến lúc nào đó, tên khát máu Nguyễn hà Phan cũng sẽ được đề cao như là nhân vật “đấu tranh cho dân chủ”, vì cách đây vài năm cuộc đấu đá nội bộ mafia đỏ khiến Nguyễn hà Phan bị lột chức ủy viên chính bộ mafia đỏ.
Rồi nữa, nếu Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Bùi công Trừng, Nguyễn văn Trấn v.v… được đề cao như là một loại “yêu nước” thì chắc những kẻ ngã ngựa trong đấu đá nội bộ bọn mafia đỏ như Tố Hữu, Nguyễn chí Thanh, Trần Phương, Trần Quỳnh, Cao sĩ Kiêm v.v… cũng sẽ lần lượt được đề cao?!!!
Cách đây một năm thôi, ông Trần Khuê, cây bút chống đối trong nước còn “ca ngợi”, “trích dẫn” lời Lê khả Phiêu mà không thấy rằng hắn đang học múa lại bài võ của họ Hồ theo kiểu “voi đú chuột chù đú theo”, nghĩa là nói thì ra vẻ lắm, mà làm thì lại nâng tên trùm tham nhũng Phạm thế Duyệt lên ngay bên hắn, ở vị trí thứ hai!!! Ngay sắc sảo như nhà văn Dương thu Hương cũng trật lất khi nhận xét về tên con hoang Nông đức Mạnh!
Nói chung, cộng đồng người Việt ở hải ngoại được mặc nhiên thừa nhận là cái mộc bảo chứng “mác chống đối” cho những cây bút chống đối ở trong nước. Nhưng nói riêng, vẫn có những cá nhân hoặc vài ba nhóm nào đấy thuộc loại “phi điểu phi thú”. Xưa “chống cộng” hời hợt, nay “chống cộng” với lập trường mơ hồ, giả tỉnh giả mê ăn tiền. Xin đưa một thí dụ cụ thể: Võ nguyên Giáp, đại tướng ngụy quân cộng sản, bị đồng bọn cho về vườn, nay bày đặt viết hồi ký. Ấy thế mà ở hải ngoại đã có ngòi bút nâng bi rồi. Ca ngợi “thịnh tình của đại tướng Võ nguyên Giáp với văn nghệ” là ân cần trích dẫn: “Một chiến sỹ tài hoa trong đoàn quân Tây tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”, đã có những câu thơ:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà-nội dáng kiều thơm.
Rồi chợt nhớ rằng năm 1956, Quang Dũng bị Tố Hữu phê phán bài thơ “Tây tiến” đó và bị đánh không ngóc đầu lên được, không được sáng tác cho đến chết! (Xin lưu ý bạn đọc rằng, Quang Dũng giỏi cả thơ, văn, họa và cả võ nữa). Cũng năm 1956 đó thì Võ nguyên Giáp đang ở đỉnh cao của vinh quang. Vậy mà Giáp có thèm biết đến Quang Dũng là cái gì đâu. Còn sau năm 1970, Giáp ở thế lép vế đến mức Phạm huy Thông còn dám cắm cho Giáp một cặp sừng, vậy mà Giáp dám đưa tay đỡ cho tên trung tá, bác sỹ riêng của Giáp, được về giữ chức giám đốc sở y tế Hà-nội, can tội dùng quyền cưỡng bức một nữ y tá trẻ ở bệnh viện St. Paul (Hà-nội) phải hiến thân cho hắn. Nhờ Giáp can thiệp, tên trung tá vẫn nguyên chức, chỉ có cô y tá bị đuổi việc.
Chuyện rành rành như thế, mà “ngòi bút nâng bi” cố bào chữa cho Giáp rằng: “Ông đại tướng không có thẩm quyền gì trong việc phê phán văn học”.
Viết ngu đến như thế mà cũng dám cầm bút! Vậy trong hồi ký, Giáp trích bốn câu thơ trên của Quang Dũng và khen, là đang làm cái gì? Có phải phê phán văn học không?
Lý luận kiểu đó nên mới dám viết về việc trưa ngày 30-4-1975, tên nằm vùng Trịnh công Sơn đã ôm đàn lên đài phát thanh của ngụy quân cộng sản hát bài hắn sáng tác, mang tên “nối vòng tay lớn”, rằng: “Thật ra anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã”!!!
Chính những ngòi bút “thùng rỗng kêu to”, có căn “nịnh bợ” đó, đã trộn lẫn thật giả, tô hồng, bóp méo làm nhiễu loạn thông tin, phí giấy phí mực, công sức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Rồi sợ mọi người biết tẩy của Giáp là thằng hèn, tận sau khi Quang Dũng đã về trời từ lâu, và chuyện “nhân văn – giai phẩm” đã thành cổ tích, Giáp mới lưu manh đưa Quang Dũng vào “đánh bóng” cho tập hồi ký, hòng lừa thế hệ trẻ, “ngòi bút nịnh ở Paris” cố công bào chữa hộ “ông không phải là người đãi bôi, và ở địa vị, tư thế, tuổi tác ông, không việc gì phải đãi bôi.” Ghê không! Giọng lưỡi hệt vệ sỹ của Giáp.
“Văn là người”, đọc những dòng trên có thể biết đó là hạng người như thế nào!!!
Cho nên cần cẩn thận khi đọc, khi đề cao những nhân vật chống đối trong nước. Đồng thời nên vô hiệu hóa những ngòi bút bẩn, xin cơm thừa canh cặn của mafia đỏ, đang múa may ở hải ngoại.
Việc nâng bi, vinh danh ồn ào bộ mặt đại Việt gian như Hồ, bộ mặt đao phủ Võ nguyên Giáp, Dương bạch Mai, Ung văn Khiêm, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v…; những bộ mặt trí nô cung đình mafia đỏ Cù huy Cận, Xuân Diệu, Hoài Thanh; bộ mặt mật vụ, phản bội “xanh vỏ đỏ lòng” Trịnh công Sơn; cho đến Nguyễn Duy, kẻ đi đâu cũng đọc bài thơ hắn sáng tác, đại ý trong khi ngụy quân cộng sản vào xâm lăng miền Nam Việt Nam, hắn bị một “tên biệt động quân” bắn, chút xíu hắn bị bể sọ. Hắn cầm súng định bắn lại, nhưng rồi hắn chỉ đuổi để bắt sống (vì nhân đạo). Vào nhà người ta ăn cướp mà phách lối thế đấy!!! Vậy mà, một số “phóng viên” ở hải ngoại đã phỏng vấn cho hắn ăn nói mất dạy như vậy mà giả mù, giả điếc đề cao! Thật khó hiểu!!!
Thử đặt câu hỏi, về vai vế Võ nguyên Giáp còn trên Nguyễn chí Thanh, vậy mà tại sao Giáp lại chịu để Thanh “nhéo tai, bóp mũi” như thế? Về sau này, các đàn em cấp dưới của Giáp cũng “khinh” Giáp?
Bây giờ đã có nhiều bằng chứng để lý giải chuyện đó. Một là, Giáp khi còn đi học, tham gia biểu tình bị thực dân Pháp bắt và kết án tù 18 tháng. Nhưng mới ở có ba tháng thì được tha lại còn tiếp tục đi học, vì Giáp đã “đầu hàng”, đã làm đơn xin “mẫu quốc” cho học để phục vụ “mẫu quốc” và vì thế được tên chánh mật thám của thực dân Pháp ở Đông-dương lúc ấy, là Marti, nhận làm con nuôi. Hai là, có thể đi đến kết luận là khi Hồ bảo Giáp bỏ học trường võ bị Hoàng-phố (Tàu) về giúp Phùng chí Kiên trong trung đội vũ trang tuyên truyền, thì, dù là theo gợi ý của Hồ, nhưng Giáp là kẻ trực tiếp bán Phùng chí Kiên cho mật thám Pháp. Còn chuyện bê bối, đĩ bợm, lãng phí quan cách v.v… của Giáp thì khỏi nói, đúng là “học trò giỏi” của họ Hồ. Và, tài cầm quân của Giáp thì: chiến dịch biên giới 1950, có đại tướng Trần Canh của Trung cộng chỉ huy giùm; trận Điện-biên-phủ có nguyên soái Vi quốc Thanh, đại tướng Trần Canh và thiếu tướng La quý Ba của Trung cộng chỉ huy hộ. Riêng trận Vĩnh-yên 1951, Giáp đích thân chỉ huy thì giống như Tết Mậu Thân (1968) sau này vậy. Đấy chính là những hòn sỏi trong miệng Giáp, khiến Giáp lúng búng, không dám đụng. Và, vì thế, dù Giáp có công phò tá Hồ nhưng Hồ vẫn không thể ban cho Giáp cái lon “nguyên soái”.
Thời kỳ phong trào “nhân văn – giai phẩm”, Võ nguyên Giáp đang là ngôi sao sáng và cũng như Phạm văn Đồng, được mấy anh “nâng bi” ca ngợi là người yêu quý trí thức. Thế nhưng Giáp không hề “an ủi” một ai, chứ đâu cần phải che chở, từ Hoàng Cầm, Trần Dần đến Quang Dũng, tuy tất cả đều ở dưới quyền Giáp. Cũng như thế, các đại tá chánh văn phòng; cục trưởng quân báo của Giáp không hề được Giáp “minh oan” khi họ bị Nguyễn chí Thanh cho bắt.
Tại sao? Bởi Giáp biết rằng tất cả những việc ấy đều do lệnh của Hồ, chứ không phải “không có thẩm quyền gì trong phê phán văn học” như nhà báo “thùng rỗng” ở Paris đã viết.
Cái sự ngậm miệng của Giáp cho đến tận năm 2000 mới dám nhớ tí chút đến Nguyễn Tuân, Quang Dũng, trong hồi ký, mà lại nhắc đến những húy kỵ của thời đánh “nhân văn – giai phẩm”, như bài thơ “Tây tiến” của Quang Dũng, như “Tùy bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, rõ ràng là thuở đó Giáp phải bị “sợ đến cấm khẩu” luôn. Kẻ đó, ngoài Hồ, làm Giáp sợ còn là ai nữa?!!!
Cho nên phải thấy Hồ mới là “đầu não” gây nên tội ác về cái gọi là đánh “nhân văn – giai phẩm”. Trường Chinh, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Hoan, Tố Hữu chỉ là những tên đao phủ thừa hành trong vụ án “nhân văn – giai phẩm mà thôi.
Lại nữa, thử đặt câu hỏi: Tại sao Võ nguyên Giáp cũng né không đả động đến cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng”, mà trong đó có biết bao đàn em, trong ngụy quân cộng sản của Giáp dính trấu, như tướng Đặng kim Giang, tướng Nguyễn văn Vịnh, tướng Lê Liêm, các đại tá Lê vinh Quốc, Đỗ đức Kiên, trung tá Văn Doãn v.v…
Câu trả lời cũng giống như trên, nghĩa là Võ nguyên Giáp biết rằng Lê đức Thọ chỉ thừa hành khẩu lệnh của Hồ để trừng trị nhóm “chống nghị quyết 9 xin bảo lưu ý kiến”, bị chụp cho cái nón cối “vụ án xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”.
Vì thế, những nạn nhân trong vụ “nhân văn – giai phẩm” cũng giống hệt những người bị quy tội “xét lại chống đảng, làm gián điệp cho nước ngoài”, khi bị bắt thì kêu oan mà chẳng đi tới đâu. Đến khi được tha thì cũng mập mập mờ mờ. Mấy đời “tổng bí thư” đều tránh né nói rõ nguyên nhân, chỉ muốn cho chìm xuồng trong yên lặng!
Một câu hỏi nữa lại được đặt ra: Tại sao người ta lại kết tội Lê đức Thọ và Lê Duẩn, thậm chí người ta còn “chứng minh” rằng họ Hồ cũng là nạn nhân của sự lộng quyền của hai anh chàng họ Lê ở trên đã có lý giải, nay xin nói rõ hơn.
Không phải tất cả đều mơ hồ về sự nhúng tay của Hồ mà Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ. Bởi vì người ta vẫn tự hào cái quá khứ kháng chiến chống Pháp, mà không nhìn ra hoặc không đủ can đảm để nhìn ra rằng cái gọi là kháng chiến chống Pháp từ đầu 1952 thực tế chỉ là nằm trong lịch trình thay thầy đổi chủ. Nghĩa là thay thực dân Pháp bằng thực dân đỏ Nga-xô, mà kết quả đã cho thấy thực dân đỏ còn tàn bạo gấp vạn lần thực dân Pháp. Một điều rõ ràng nhất, là nhiều trí thức do Pháp đào tạo đã trở thành những người yêu nước nồng nàn như Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Trần Trọng Kim, bác sỹ Trần Văn Lai v.v… Còn trí thức do “thực dân đỏ” (cả Nga-xô và Trung cộng) đào tạo thì đều thành lũ gia nô hay nói như Dương thu Hương là “trí thức mang trái tim chó”, hay nói như Mao trạch Đông là “không bằng cục cứt”. Và ngay những trí thức của Pháp đào tạo, đã có những lúc sống đẹp và hào hùng, khi kết hợp với thực dân đỏ cũng thành hèn, thành gia nô. Những điển hình là Phan Anh, Huỳnh văn Tiểng, Mai văn Bộ, Nguyễn văn Huyên, Hoàng minh Giám, Kha vạng Cân, Trần đăng Khoa, Nghiêm xuân Yêm, bác sỹ Phạm khắc Quảng, bác sỹ Trần duy Hưng, giáo sư Hoàng xuân Nhị, Bùi Kỷ, Phạm văn Bạch, luật sư Nguyễn thành Vĩnh và v.v… nhiều lắm, gần như trọn vẹn những ai chót mắc vào lưới nhện của Hồ (đại diện của thực dân đỏ).
Nếu thẳng thắn nhìn vào bộ mặt Việt gian của Hồ thì có nghĩa là phải chặt bỏ hết cả cuộc đời, phải thừa nhận tội đồng lõa với Hồ. Điều này không phải dễ dàng. Phải có dũng cảm như ông Nguyễn Hộ mới dám đoạn tuyệt với cái quá khứ đó.
Cho nên (dù là nạn nhân của Hồ) người ta vẫn phải đề cao Hồ, cố nhắm mắt bỏ qua mọi bằng chứng tội ác rành rành của Hồ mà họ có phần góp sức, để tấn công vào Lê Duẩn và Lê đức Thọ, cũng như tụi đầu nậu sau này. Họ không thấy rằng hầu hết nhân dân Việt Nam bị Hồ lừa, ở các mức độ khác nhau. Cho nên bị lừa nhiều hay bị lừa ít chỉ biểu thị là nạn nhân nhiều hay nạn nhân ít trong các hành động tội ác của Hồ mà thôi. Sau này khi nhắm mắt xuôi tay, có muốn nói, muốn viết cũng chẳng được. Lịch sử sẽ phán xét công bằng và sáng suốt.
Nhưng, cái tai hại cực kỳ nghiêm trọng cho toàn dân Việt Nam lúc này lại chính là việc tiếp tay với tập đoàn mafia đỏ đương quyền đề cao họ Hồ.
Việc làm này, như trên đã phân tích, đã và sẽ làm chững lại phong trào vùng lên của nông dân, vì họ hy vọng sẽ có sửa sai để đi đúng con đường của Hồ. Bọn cơ hội đi hai hàng ở hải ngoại lại làm nhiễu thông tin để sức mạnh dư luận quốc tế bị lái lệch hướng. Còn tập đoàn mafia đỏ cầm quyền, cứ núp sau cái thây ma của họ Hồ (mà ngay những kẻ chống đối chúng và một số cây bút hải ngoại vẫn đề cao; một số báo, tạp chí giúp chuyển tải những sự đề cao Hồ có tính xuyên tạc đó) để “đại hội này sửa sai”, rồi “lại đại hội sau sửa sai” và cứ thế, người dân cứ việc chờ ăn bánh vẽ, còn chúng thay nhau làm “tổng bí thư”. Thí dụ cụ thể: Đỗ Mười nghe mãi câu chuyện tham nhũng của Phạm thế Duyệt, Nguyễn công Tạn, Võ văn Kiệt v.v… Mười lui cho Lê khả Phiêu, ấy thế mà Phạm thế Duyệt lại được Phiêu nâng lên thành nhân vật số 2; và băng của Phiêu xuất hiện một cây tham nhũng mới: tên trung tướng Phạm văn Trà. Đến khi Phiêu lui thì lại đến Nông đức Mạnh lên, những bộ mặt tham nhũng cũ không bị đụng cọng lông chân như Kiệt, Tạn, Duyệt, Cao sĩ Kiêm, Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, Lê xuân Tùng v.v… Riêng Phạm thế Duyệt, không nằm trong trung ương mafia đỏ nữa, nhưng vẫn ngồi cái ghế loại cha bố của xã hội chủ nghĩa đỏ. Đó là Duyệt giữ chức chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận tổ quốc trung ương!!! Và, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam (mà cũng là cả thế giới), nhân vật loại 2 của Bắc triều là Lý Bằng đến Việt Nam, mà cả ba đời “tổng bí thư mafia đỏ Việt Nam” ra sân bay quỳ lạy “sứ thiên triều”. Đó là ba tên Việt gian trong băng đảng của họ Hồ, lần lượt là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, những đứa bán đất đai và biển của Việt Nam cho ba Tàu cộng, đúng như Hồ đã làm khi hắn còn chưa bị bắt giam ở hỏa ngục (âm ty).
Xin hỏi các cây bút “chống đối” ở trong nước, đã dũng cảm tố giác tội bán nước của bè lũ Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Trần đức Lương, Nguyễn văn An v.v… sao không thấy rằng chúng đi đúng đường lối của Hồ đấy. Sao kết tội chúng mà không kết tội Hồ?
Cái chưa bao giờ hiện hữu là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” thì nhìn ra và mô tả cứ như mấy nhà văn, nha thơ ba Tàu ngày xưa viết về “Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện”; còn tội ác bán nước, giết dân, đụ bậy, tham nhũng, lãng phí, đạo văn của Hồ thì còn bút tích; còn số liệu, tên người; còn nhân chứng; còn chứng cớ, hình ảnh; còn bằng chứng thì lại giả vờ hoa mắt không chịu nhìn ra!!!
Và, một điều trái khoáy nữa là chính Hồ, một thằng cha dám làm mọi việc “Trời không dung, Đất không tha”; một thằng tham danh, tham quyền, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích; một thằng tự đề cao một cách lố bịch và vô liêm sỉ dám phét lác là sẽ “”đưa năm châu đến đại đồng”, mà bản thân hắn không dám nhận mình đẻ ra “chủ nghĩa” gì. Thế mà có người lại nhìn ra “dê đực của Tô Vũ đẻ dê con”. Thật là đại tài nhưng lại đại tai cho nhân dân Việt Nam, nói chung!!!
Bài 14
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Nếu điểm lại kỹ càng những việc Hồ đã làm, từ khi hắn lấy cái tên Nga là Line, trở thành mật vụ cho Nga-xô, cho đến ngày hắn chết, thì mới thấy cái lưu manh của Hồ trong nội dung di chúc của hắn.
Hồ soạn mấy cái di chúc để đệ tử tiện sử dụng tùy thời lúc hắn chết. Nhưng tựu trung vẫn chỉ là căn dặn đệ tử:
1. Phải coi việc bảo vệ mẫu quốc là trọng tâm hoạt động của toàn tổ chức mafia đỏ Việt Nam
Cái nội dung của nhiệm vụ trung tâm nói trên có nghĩa là phải tiếp tục thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, tức xâm lược bằng được miền Nam Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Sau nữa, có thể mở rộng ra cả vùng Đông-nam-á. Muốn thế, về đối nội phải tiếp tục chuyên chính, nghĩa là dùng bạo lực cưỡng bức toàn dân theo lệnh của tụi chóp bu của tổ chức mafia đỏ Việt Nam. Phải hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, nghĩa là phải tiếp tục vô sản hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, thành tài sản của tổ chức mafia đỏ. Có thế mới có điều kiện thực thi nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ.
Cái mà Hồ nói đến là “chủ nghĩa quốc tế vô sản” là thứ màu mè che đậy nội dung của “chủ nghĩa thực dân đỏ”. ở Paris, có nhà luật học đã cố tình quay lưng với thực tế, làm trò xiếc tung hứng chữ nghĩa để viết rằng “Hồ là phe quốc tế”, còn những Nguyễn Thái Học, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu v.v… là “phe dân tộc”!!!
Tổ tiên ta đã dạy: “Đừng buôn chung với Đức Ông”. Cho nên nước lớn thì dùng cái mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che bộ mặt thật là thực dân. Còn mấy tên làm chính trị của nước nhỏ thì đeo mặt nạ “chủ nghĩa quốc tế” để che đậy bộ mặt Việt gian, dựa vào nước lớn để giữ vững quyền lợi cá nhân và phe nhóm mà thôi.
Cuộc chiến tranh họ Hồ phát động ở hai miền Bắc và Nam Việt Nam có lợi cho ai, thật rõ ràng. Còn nhân dân và đất nước Việt Nam bị mất đủ mọi thứ, cả tinh thần, cả vật chất.
Bè lũ Lê Duẩn đi tiếp con đường phản dân hại nước của Hồ, càng dìm nhân dân và đất nước Việt Nam vào đầm lầy, ngõ cụt. Gây chiến sang Căm-bốt, chiến tranh với Trung cộng, và để Nga-xô hưởng không cảng Cam-ranh chẳng tốn một xu và các mỏ dầu hỏa ở biển Đông thì liên doanh theo kiểu “chủ ăn thịt, chó gặm xương”!
Rồi khi “mẫu quốc đỏ” ngủm củ tỏi, bọn đệ tử của Hồ lại tiếp tục cái sự nghiệp “quốc tế vô sản” của Hồ, quay lại với “anh hai Trung cộng” xin sự che chở bằng dâng đất và biển, hệt như Hồ đã làm trước đây.
2. Bảo vệ sự đoàn kết trong tổ chức mafia đỏ
Khi còn sống, Hồ tạo ra hai băng Lê Duẩn và băng Trường Chinh kình chống nhau, nhằm mục đích không băng nào dám phản lại Hồ. Nhưng khi sắp chết, Hồ biết bọn chúng chỉ chờ Hồ nằm xuống là làm thịt nhau, nên Hồ mới căn dặn bọn chúng phải “đoàn kết” nghĩa là phải biết san sẻ quyền lợi, nhân nhượng để giữ vững quyền lợi “mẫu quốc đỏ” và quyền lợi của chính tổ chức mafia đỏ Hồ chí Minh. Kẻ phát biểu cái ý đó của Hồ chính là Tố Hữu, viết bài thơ ngay sau khi Hồ chết với đại ý rằng: “Nay cha mất rồi, anh em nên cùng nhau chia việc gánh vác”!
Đấy là một lối đãi bôi đểu giả của Hồ với băng Trường Chinh, vì hắn thừa biết là băng Lê Duẩn sẽ thắng thế. Nhưng, mục đích chính của Hồ là để hậu thế vẫn thấy hắn là còn người luôn vì nghĩa lớn, luôn luôn đi theo con đường “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!!!”
3. Tha thuế cho nông dân
Từ cuối năm 1954, do hiệp định Genève về Việt Nam, Hồ đã nắm được quyền cai trị từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc Việt Nam. Hắn nắm quyền cai trị suốt 15 năm trời, chưa bao giờ hắn mở mỏ nói đến giảm thuế, giảm sưu cho dân. Mỗi phong trào hắn phát động là lại đem đến chém, giết, tù đày, đói khổ cho người dân Bắc Việt Nam, đặc biệt là nông dân. Ngay không phải thời gian giáp vụ thì cả miền Bắc Việt Nam đã phải trường kỳ ăn độn; ở nông thôn nhiều nơi chết đói nhưng tuyệt nhiên báo, đài không được đưa tin. Mọi tội lỗi của Hồ và tổ chức mafia đỏ của hắn gây ra cho nhân miền Bắc Việt Nam đều đổ cho “Mỹ-Ngụy”. Và, lũ bút nô ra công bịa các chuyện đói khổ ở miền Nam Việt Nam, để xoa dịu lòng dân. Nào là trong miền Nam, đàn bà con gái phải làm điếm kiếm ăn; gạo thiếu đến mức nhà buôn phải trộn hạt ny-lông vào gạo. Ngay lính Mỹ cũng bị “đói” đến mức phải cưỡi trực thăng đi cướp gạo của nông dân. (những điều này “hư thực ra sao” chắc Lữ Phương không thể chối là không biết!)
Cơ quan khoa học của Hồ được lệnh khuyến khích nhân dân ăn các thứ bá láp, nhưng lại chứng minh ra vẻ rất khoa học. Nào là ốc sên có nhiều đạm; ăn 7kg lá khoai mì cũng bổ tương đương bằng 1kg thịt bò; thịt cóc, nhái đều có nhiều đạm; rồi phổ biến làm “thủy sâm”; me-xừ Lý Ban, bí thư đảng đoàn bộ ngoại thương (thời kỳ Phan Anh làm bộ trưởng và Nguyễn văn Đào làm thứ trưởng), cũng là phái viên của Trung cộng trong trung ương mafia đỏ Việt Nam, thì ra công phổ biến cách nhịn ăn, sáng sớm uống độ 2 lít nước âm ấm. Me-xừ bác sỹ Nguyễn khắc Viện, tuy việc chính là “bịp” quốc tế về tình hình miền Bắc Việt Nam, có máu cơ hội nên hưởng ứng bằng bài báo nghiên cứu về “rau muống” đăng trên tờ Văn Hóa. Rồi nào là ngô bổ hơn gạo v.v… Và ngụy quyền Hồ chí Minh khuyến khích ăn thai nhi và nhau đàn bà đẻ. Và, chuột cống thành phố cũng được coi là nguồn thịt ngon lành.
Biết bao người ngộ độc vì ăn ốc sên, thịt cóc, thịt chuột, có nơi chết cả gia đình. Còn môn thuốc chữa đói của me-xừ Lý Ban cũng làm nhiều người trương bụng lên mà chết.
Những việc đó Hồ đều biết. Ngay cả ở chợ Đồng-xuân (Hà-nội), Hồ cũng hóa trang (nhà nghề gián điệp mà) giả làm một người già có bệnh ra mua tem thịt tiêu chuẩn 150gr một tháng, bị con bé mậu dịch viên bán thịt vứt cho cục xương và nói: “Không có thịt, ăn tạm cục xương này, không thì thôi!” Câu chuyện đó được nối dài thêm vào những “huyền thoại về Hồ”. Còn từ con bé mậu dịch bán thịt, cho đến cửa hàng thịt, ban quản lý chợ v.v… chẳng ai việc gì!!!
Cho nên trước khi chết, Hồ để di chúc mong nông dân được tha thuế lại chỉ là trò tự đánh bóng cố hữu của Hoà, trút cái khó khăn lại cho đệ tử. Nếu chúng “tha thuế” thì đó cũng là lệnh của Hồ; nếu “không tha thuế” thì dân oán chúng mà vẫn ơn Hồ và tiếc vì Hồ đã chết nên “cán bộ” làm sai tâm nguyện của Hồ. Đòn ma giáo này của Hồ còn nhằm phối hợp với ý thứ tư trong di chúc của hắn.
4. Đừng làm ma to, cho Hồ, lãng phí của dân
Một số bồi bút cung đình, một số cây viết người nước ngoài thuộc loại “dễ tính, vô trách nhiệm khi cầm bút” và “óc ít nếp nhăn” cứ tô vẽ thêm vào cho Hồ là giản dị, tiết kiệm v.v… để “huyền thoại về Hồ” càng thêm nhiều điều phét lác.
Trong lịch sử Việt Nam, trải dài hơn 4000 năm, chưa có kẻ nào lãng phí máu xương, tài nguyên của Việt Nam như tên Việt gian Hồ chí Minh. Lê long Đỉnh bất quá giết mấy ông sư. Gióc mía lên đầu cũng chỉ dăm ba người, cho hổ ăn thịt cũng độ chục mạng. Trần thủ Độ có chôn sống cũng chưa đến 100 người thân tộc, sủng thần của nhà Lý. Ngay Gia Long, Minh Mạng cũng giết dân khá nhiều, nhưng cũng chỉ tới số ngàn.
Còn Hồ, chỉ riêng số thanh niên cùng gia đình và bạn bè quen biết của họ, bị Hồ bán cho mật thám Tây năm 1929 cũng đã ở con số hàng ngàn. Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3 đề ngày 20-4-1935 viết:
“Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau thường bàn về đồng chí Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách nhiệm về việc mật thám bắt hơn một trăm hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:
a) Quốc biết rõ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với hắn.
b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.
c) ở trong nước, ở Xiêm (Thái-lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.”
Năm 1945, Hồ còn cho lệnh ám sát những người đối lập, các đảng phái không cộng sản, kể cả nhóm troskít, cho đến tín đồ và chức sắc các giáo phái cũng vài chục ngàn. Rồi cải cách ruộng đất của miền Bắc Việt Nam cũng ở con số ngót nghét một triệu, chưa kể các trò ma quái khác, kể cả việc xâm lăng miền Nam Việt Nam!
Khi còn sống, Hồ đã chứng kiến bao sự lãng phí trong các ngày lễ, nào in ảnh màu (trước khi hoàn thành nhà máy in Tiến bộ) ở nước ngoài; nào ảnh dệt của Hồ; tượng lớn tượng nhỏ của Hồ cũng như các thứ huy hiệu mang hình Hồ v.v… cùng với sự lãng phí của các đệ tử của Hồ, có bao giờ thấy hắn trừng phạt ai đâu. Hắn chỉ nêu chung chung lấy cớ siết chặt mọi nhu cầu thiết yếu của dân mà thôi, như ủng hộ “miền Nam”, “anh Trổi chị Quyên” để rồi lính ngụy và thanh niên xung phong tiết kiệm mặc quần áo cũ, trả lại quân phục mới; công nhân thì làm thêm giờ, không đi phép năm; nông dân “xin” đóng thuế vượt mức v.v… và tự túc mỗi năm 3 tháng lương thực đi “lao động nghĩa vụ” (tức làm sưu); công nhân, xã viên hợp tác xã, cán bộ, nhân viên trong các nhà máy, cơ quan cũng phải gánh thêm phần việc của nhau để mỗi năm 3 tháng đi “lao động nông nghiệp”!
Cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam càng ác liệt thì Hồ càng thẳng tay trấn lột nhân dân tàn bạo hơn. Nhà dân bị rỡ làm cầu, làm đường không bồi thường. Các nghĩa trang bị san bằng lấy cớ làm trận địa phòng không. Học sinh mẫu giáo phải đóng tiền “làm hầm” trú ẩn, mà lạ nỗi là hầm cũ còn đó mà cứ mỗi năm hoặc nửa năm lại đóng mới lại. Nhưng, tàn bạo vô lương tâm nhất là Hồ cho tổ chức đám cưới các thương bệnh binh nặng với các nữ thanh niên, nhằm trút gánh nặng toàn bộ cho người phụ nữ nông dân. Vì thế mà xảy ra biết bao vụ vợ giết chồng hoặc tự tử để “thoát nợ đời”.
Tất cả sự lãng phí của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn đã đẩy số phận đa số phụ nữ miền Bắc thành điếm! Muốn vào làm việc ư; muốn được vào biên chế ư; muốn được nhập hộ khẩu ư; muốn được lên lương ư; muốn được đi học hay đi lao động ở nước ngoài ư; muốn vào đại học ư, và v.v…, hàng trăm thứ muốn. Người phụ nữ chỉ cần chấp nhận (nhiều khi không chấp nhận cũng không thể được) mang hiến cái phao câu của mình cho cấp có thẩm quyền (cán bộ tổ chức, cấp ủy mafia đỏ, công an hộ tịch, giám đốc, chủ nhiệm, bộ trưởng, thứ trưởng v.v…). Đâu có phụ nữ là cũng có tình trạng đó, có thể nói là 100%. Vì từ trên Hồ đến Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng, Hoàng văn Hoan, Trần quốc Hoàn, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân, Ung văn Khiêm, Nguyễn Côn, Hoàng Tùng, Trần danh Tuyên, Nguyễn đình Thi, Bảo định Giang, Lưu trọng Lư, Nguyễn tư Thoan, Vũ Đại, Vũ Quang, Nguyễn trọng Vĩnh, Hồng xích Tâm v.v… cho đến cấp cơ sở như tên Phán (đồng hương của Phạm văn Đồng) chỉ là cửa hàng trưởng cửa hàng văn phòng phẩm Tràng Tiền (Hà-nội) mà có 42 nữ nhân viên thì hắn đã “gặm phao câu” của tới 40 nàng kiều!!!
Chuyện hiến thân cho cấp trên phổ biến đến mức, trung tá ngụy quân Hà minh Tuân, nhà văn kiêm giám đốc Nhà xuất bản Văn học phải viết cuốn “Vào đời” để kêu gọi dư luận xã hội. Nhưng kết quả ngụy quyền Hồ chí Minh chẳng những không sửa sai mà còn cất chức và cất bút của nhà văn Hà minh Tuân và bọn chúng cố tình cho tên của ông ta vào lãng quên. Những Nguyễn Khải, Lê Lựu v.v… có thời là đàn em của Hà minh Tuân, nhưng có ai dám nhớ đến nhà văn dũng cảm đó!!!
Ngay cái ngụy quyền mafia đỏ, của Nông đức Mạnh bây giờ, vẫn còn những gương mặt tự hiến phao câu nên đã nhẹ nhõm leo nhanh trên bậc thang quan lại đỏ, như Cù thị Hậu, Nguyễn thị Hằng, Võ thị Thắng, Nguyễn thị Bình (phó chủ tịch nước), Trương thị Mỹ Hoa (phó chủ tịch quốc hội) v.v…!!!
Cù thị Hậu xuất thân từ thợ dệt ở nhà máy dệt Nam-định. Để trở thành chiến sỹ thi đua, đã phải “chiều lòng” từ cấp ủy nhà máy đến tỉnh, rồi cả “phóng viên thường trú của Việt Nam thông tấn xã cho đến ban thi đua bộ công nghiệp nhẹ, ban thư ký tổng công đoàn”. Vì thế mà trở thành đại biểu “cuốc hội”, mỗi lần đi họp thì chủ yếu chờ mua hàng đặc biệt do thương nghiệp phục vụ “cuốc hội”. Đến mức, chính Hồ còn toe toét cười hỏi: “Các cô chú ở thương nghiệp có chuẩn bị nhiều hàng cho đại biểu yên tâm họp không?” Mỗi lần như thế, bác sỹ Trần duy Hưng lại nhanh nhẩu đứng lên hô: “Hồ chủ tịch muôn năm!” Cả hội trường hô theo ầm ĩ khen: “Bác tâm lý thật”!
Đúng vậy, do nghề gián điệp, chỉ điểm nên Hồ rất “tâm lý”. Trong di chúc thì dặn đệ tử tha thuế, dặn đừng làm ma to cỗ lớn, đúng là giản dị thật. Nhưng sự thực là hắn đã nghĩ đến cái “mả” của hắn từ trước 1960.
Khi theo lệnh Hồ, Trường Chinh ký lệnh tập trung cải tạo tất cả những người Hồ cho là không thích hợp cho chế độ thực dân đỏ của Hồ, vào ngày 20-6-1961, thì thực tế đa số đã bị bắt giam từ 1960, cùng lúc với “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Cục lao cải của bộ công an (sau này gọi là cục quản lý trại giam) là đơn vị cục vụ duy nhất có chỉ huy trưởng là cấp tướng: thiếu tướng Lê hữu Qua (ngay vụ tổ chức cũng chỉ là đại tá Hoàng Thao; chánh văn phòng là đại tá Hồng Hà; viện trưởng viện khoa học công an là đại tá Mai văn Mạc). Cái “cục lao cải” quan trọng đến mức phải do cấp tướng chỉ huy vì nó có một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng mà Hồ giao cho Trần quốc Hoàn. Đó là xây hồ Suối Hai ở Ba-vì, là nơi, theo thầy địa lý, có miếng đất đế vương, nhưng phải cải lại một chút vì xưa kia đã bị ba Tàu yểm (hình như thời Cao Biền đô hộ). Cho đủ bộ vì, phải có Hồ Suối Hai để thăng bằng với đỉnh núi Tản. Hồ đích thân lén chôn những chiếc răng của hắn, gọi là có cốt, ở mảnh đất “phát vương” đó. Nhưng hắn “đa nghi” nên chơi trò “năm ăn, năm thua”. Nghĩa là, ngộ nhỡ mảnh đất đó không phát thì nếu chôn cả cái thây của hắn ở đó, có thể có kẻ phá (hắn biết có lắm kẻ thù là nhân dân); còn chôn răng không thôi cũng sợ có thể phát mà cũng có thể không. Vì thế hắn muốn có cái lăng nằm chình ình giữa thủ đô, để chí ít thì cũng như Lê-nin, và cũng sẽ hy vọng là “vinh quang” mãi mãi!
Trong lúc đang chiến tranh, nhân dân còn đói khổ mà lại ghi vào di chúc là xây lăng thì chỉ có kẻ ngu! Hồ chưa bao giờ làm việc gì mà không “thủ đoạn, ma giáo”. Cho nên hắn lại diễn lại vở kịch cũ. Đó là những ngày đầu (sau cuộc chiến bùng nổ ra ngày 19-12-1946) chạy lên Việt-Bắc, Hồ không chịu được mùi thuốc rê, vì hắn chỉ quen hút ngày vài bao thuốc lá thơm Craven A, là thứ chỉ có thể mua được ở Hà-nội, là nơi quân Pháp tạm thời quản lý. Cho nên hễ “vào cuộc họp là Hồ ra công ho”. Và, theo đề nghị của Phạm văn Đồng, “trung ương mafia đỏ” (lúc đó còn chưa công khai) gồm Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Hoàng quốc Việt, Nguyễn Khang, họp và ra nghị quyết bắt buộc Hồ phải hút thuốc thơm Craven A để khỏi ho. Và, tất nhiên Hồ tôn trọng và chấp hành ý “trung ương”. (Điếm thật!!!). Người được giao trách nhiệm lo cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ hút, nghĩa là phải cử người lén vào Hà-nội mua, là Trần dụ Châu, bèn được Hồ cho cái lon đại tá ngụy quân, phụ trách quân nhu.
Lợi dụng việc đó, Trần dụ Châu đã dùng tiền của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, lãng phí vô tội vạ. Thị trấn Thanh-cù (Phú-thọ) là nơi ăn uống xa hoa của thuở đó, chủ yếu là nhân viên dưới quyền Trần dụ Châu. Và, hang ổ của hắn ở Ao-châu (huyện Ấm-thượng, Phú Thọ) thì tiệc tùng thâu đêm. Chính đại biểu quốc hội khóa 1 là giáo sư Đoàn Phú Tứ, đã chứng kiến các vụ việc đó, giáo sư viết thư “hạch tội” họ Hồ. Thế là Hồ cho lệnh tử hình Trần dụ Châu ngay. Hồ đi quả bất ngờ này nên Trần dụ Châu chưa kịp khai báo gì nhiều, và chuyện đến đó là hết, không lôi theo các vụ việc khác như vụ Phạm văn Đồng cưỡng ép một “cháu” học sinh ở miền Nam ra, chẳng hạn. Hồ bèn đặt vào cái ghế chủ nhiệm quân nhu một nhân vật do bề tôi thân cận và trung thành của Hồ là Nguyễn lương Bằng (tức Sao Đỏ hay anh Cả Đỏ) giới thiệu. Đó là Trần đăng Ninh, được đeo lon thiếu tướng và được là ủy viên trung ương chính thức của mafia đỏ từ đại hội 2 (1951). Ngoài việc cung cấp thuốc lá thơm cho Hồ, Trần đăng Ninh còn là kẻ kiếm gái người dân tộc thiểu số cho Hồ chơi. Nạn nhân Nông thị Xuân chính là do Trần đăng Ninh lựa chọn và “làm công tác tư tưởng” trước khi tiến cung!
Việc làm công tâm của đại biểu Quốc hội khóa 1 là Đoàn Phú Tứ càng khiến Hồ nóng lòng ra tay “tiêu diệt âm thầm” Chính phủ Liên hiệp đa đảng và Quốc hội như đã trình bày ở những phần trên.
Cho nên trong di chúc để công khai với toàn dân và quốc tế thì Hồ đóng trò “thanh liêm”, nhưng bên trong Hồ cho khẩu lệnh khác, vì thế mới có sự nhất trí của chính trị bộ mafia đỏ là xây lăng, ướp xác cho Hồ, dám làm trái di chúc của Hồ khi thây Hồ còn chưa kịp lạnh và đã sẵn sàng đội ngũ chuyên gia ướp xác Nga-xô từ ngàn dặm kịp thời có mặt!
Thật là mọi chuyện rõ như ban ngày. Có mù như sẩm thì cũng sờ bằng tay hay nghe bằng tai được!
Cái lăng của Hồ là một “tội ác tàn bạo” nữa của Hồ và tập đoàn cộng sản Việt gian của hắn giáng lên đầu nhân dân Việt Nam. Không kể tiền bạc, tài vật, mà nó là kết tinh của bao khối máu dân, bao giọt nước mắt của những người có chồng con chết trong khi chuyên chở gỗ, đá để xây lăng cho hắn, nếu có hứng chắc cũng nhiều như nước ở thác Bản Giốc mà thằng con hoang của Hồ là Nông đức Mạnh vừa dâng cho ba Tàu bành trướng bá quyền.
Hãy thử nghĩ xem, những năm đó, chiến tranh do Hồ phát động xâm lược miền Nam Việt Nam, đang ở thời kỳ ác liệt cả trên không, trên bộ và sông biển. Vậy mà gỗ là lấy từ rừng núi Tây nguyên chở ra Hà-nội. Tìm gỗ và lấy gỗ cũng phải bao nhiêu mạng người. Rồi lại qua đường gọi là “đường mòn Hồ chí Minh”, cứ mười phần thì tới Hà-nội chưa được một. Số còn lại cùng những đơn vị chuyên chở, gỗ và máu xương quyện lại với nhau và mãi mãi nằm lại trên đường đi! Còn đá xây lăng là do mẫu quốc Nga-xô ban cho, lấy từ vùng Caucase, chở bằng tàu biển đến phao “0” ở Hải-phòng. Từ đó, công binh ngụy quân cộng sản phải chở ngầm bằng phao vào vì cảng Hải-phòng bị bỏ mìn phong tỏa. Biết bao nhiêu con người Việt Nam nữa lại chết vì chuyên chở đá.
Xã hội Việt Nam trải qua bao triều đại, cũng có nhiều hôn quân, cũng có nhiều giai đoạn bị cai trị bởi tụi xâm lược phương Bắc (tức ba Tàu), và cho đến thực dân Pháp nữa, chưa bao giờ máu xương nhân dân Việt Nam lại bị sử dụng một cách tàn bạo và vô ích như thế. Các vua chúa ngày xưa cũng chẳng bao giờ khi còn sống bắt dân thờ sống trong từng nhà. Và, có xây lăng cũng chẳng bao giờ xây lúc đang có chiến tranh. Cũng chẳng bao giờ xây chình ình giữa lòng thủ đô như họ Hồ. Đã thế, sau khi lăng được hoàn thành, bọn đầu lãnh mafia đỏ còn ra lệnh đưa chỉ tiêu cho các địa phương, cơ quan, trường học v.v… theo kế hoạch điều động dân luân phiên đưa nhau viếng lăng, đảm bảo lúc nào cũng đông người viếng đều đặn. Biết bao lãng phí về công lao động, xăng dầu, xe cộ để phục vụ cho sự điên loạn tàn bạo của họ Hồ và tập đoàn Việt gian mafia đỏ của hắn.
Rồi bây giờ, họ Nông lên cầm quyền, hắn làm lễ dâng hương cho con yêu tinh râu xanh, cha đẻ của hắn là họ Hồ, cùng lúc dâng hương cho cả Trần Phú và Hà huy Tập, cố tình làm nhòa đi những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập đã méc với quốc tế 3 các thứ tội của cha hắn. Đồng thời, Phan văn Khải ra nghị quyết về “lễ hội”. Có nghĩa là tập đoàn đầu nậu mafia đỏ chuẩn bị dựa vào “truyền thống dân tộc” để tiến dẫn những tên cộng sản Việt gian ác ôn, có nợ máu với nhân Việt Nam, vào chiếc ghế “thành hoàng” ở các làng xã!!!
Ngày cái lăng họ Hồ “khai trương”, chỉ có “lãnh đạo” các cơ quan, đoàn thể đi xem trước, có một số phóng viên các báo, đài cũng được đi. Ấy thế mà chẳng biết canh gác ra sao để đến nỗi một bài thơ châm biếm đã dán ở gốc cây, nội dung như sau:
“Cũng lăng, cũng lính, cũng kèn đồng
Xác ướp da xương, tim óc không
Nằm quan tài kính cho người ngắm
Xác nhắm mắt nghiền chẳng dám trông
Sở thú kề gần dăm bảy bước
Thú người, người thú nực cười không!!!”
Ai làm thơ, ai dán, chắc cho đến nay bọn mafia đỏ vẫn chưa điều tra ra. Nhưng, rút kinh nghiệm “quả hớ” đó, kể từ ngày “khánh thành chính thức” cho đến về sau, nội quy bắt gửi lại đồ, người đi viếng phải tự kiểm soát nhau, không được tách ra đi một mình và v.v… Đến lúc ấy thì tự cái xác của Hồ, dù chỉ còn da; tim, gan, óc, phèo, phổi (không biết cái tạo ra Nông đức Mạnh còn không) đều bị moi ra hết, thế mà vẫn bị “thối”. Cái mũi chó săn của Hồ bị lỗ chỗ, phải đắp sáp. Và “nghe nói” cái xác của Hồ, thứ thiệt thì ngâm thuốc dưới hầm, còn cái trưng ở trong quan tài là bằng sáp nặn mà thôi.
Quả là họ Hồ, khi sống, lúc chết đều là giả dối hết!!!
Còn một câu hỏi nữa, đó là ngày chết của Hồ. Đầu tiên là 3-9-1969. Sau do “tiết lộ” của Vũ Kỳ rằng ngày đó là sai, do nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ tự ý thay đổi, chứ Hồ chết vào đúng 2-9-1969! Và, thế là tụi mafia đỏ Việt Nam cho đổi lại ngày chết của Hồ cho đúng với tiết lộ của me-xừ Vũ Kỳ, gia nô tin cẩn của Hồ!
Chuyện vô lý đến thế mà cũng có nhiều người tin. Cả cái gọi là di chúc của Hồ với bút tích của hắn hẳn hoi mà bọn Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ v.v… còn làm ngược lại như đừng “ma to cỗ lớn, lãng phí” thì chúng còn “lãng phí không chỉ tiền của trong xây lăng, mà cả xương máu”. Mỗi đời “tổng bí thư” lại bổ sung thêm những “chi tiêu lãng phí” cho cái lăng đó. Như bây giờ là thành lập bộ tư lệnh bảo vệ lăng; tổ chức chào cờ trước lăng hằng ngày v.v… “Tha thuế” vẫn là chuyện “hứa lèo”. Nếu có thi hành chút chút thì như bài tây ba lá, rút chỗ này, chập chỗ kia, nghĩa là tăng thêm các khoản đóng góp đủ loại nghĩa vụ! Đời Hồ đã bán đất, bán biển cho ba Tàu (các thư do Ung văn Khiêm, rồi đến Phạm văn Đồng gửi cho ba Tàu còn đó); đời con là Nông đức Mạnh lại còn tặng đất, tặng biển cho ba Tàu bạo hơn. Thế mà nay chỉ vì tên gia nô mà răm rắp sửa sai cái việc chẳng có chút gì quan trọng. Vì, đến ngày sinh của Hồ cũng toàn là “rổm” cả. Sao không sửa lại đi?
Vậy tại sao lại sửa ngày chết của Hồ?
Trước khi trả lời câu này, xin lưu ý bạn đọc rằng tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh ra lệnh “xóa bỏ mê tín dị đoan”, là xóa đối với nhân dân thôi, còn bọn chúng thì làm ngược lại. Từ Hồ trở xuống, từ Tố Hữu trở lên, thằng nào cũng rất tin vào tướng số, địa lý, tử vi.
Hoàng văn Hoan căm thù nhà văn Vũ Trọng Phụng đến mức dựa vào vụ “nhân văn – giai phẩm”, ra “khẩu lệnh” bắt hủy bỏ và cấm in, phổ biến mọi tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Có hai nguyên nhân để Vũ Trọng Phụng bị “căm thù”, mặc dầu ông đã chết từ 1940, mà theo lời nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, khi bịnh nằm ở khu an dưỡng đã “tâm sự” với người viết rằng:
1- Thấy Vũ Trọng Phụng nổi tiếng nên Trường Chinh móc nối muốn đưa Vũ Trọng Phụng gia nhập “cộng sản”, nhưng Vũ Trọng Phụng từ chối, lại còn nói, đại ý: “Bọn các anh chỉ mượn danh cách mạng để làm tiền những người yêu nước, dùng vào những việc đen tối!”
2- Trong tác phẩm “Giông tố”, lão già “cách mạng” kiêm thầy địa lý mà Vũ Trọng Phụng mô tả chính là mượn hình ảnh ngoài đời của Hoàng văn Hoan vậy.
Đỗ Mười từng bị điên phải sang Trung cộng chữa chạy, có thằng con trai cũng “điên điên, khùng khùng”. Một giáo sư sử học cũng có tiếng tăm, chuyên nghiên cứu tử vi, có dịp xem tử vi cho Đỗ Mười từ khi Mười còn là phó thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đã phán rằng Đỗ Mười sẽ phát đến bậc đầu lãnh số một của tập đoàn mafia đỏ. Và, khi mới ở ngôi vị thứ 2, sau Nguyễn văn Linh, thì Đỗ Mười đã “mời” viên giáo sư sử học đó làm cố vấn chìm. Qua Đỗ Mười, viên giáo sư sử học có điều kiện “cố vấn tử vi” cho hầu hết tụi đầu nậu mafia đỏ, kể cả gia đình nhà anh em Lê đức Thọ. Còn Trường Chinh thì “cả họ” nhà hắn, cả gái cả trai đều say mê tử vi.
Chính nhân vật “cố vấn tử vi” đó đã trình bày rằng ngày giờ Hồ chết không ổn, hãy bỏ ngày thật 3-9 đi mà đổi thành ngày 2-9-1969 thì hay hơn. Và, nếu không tin ở ngày giờ xấu, tốt thì cũng nên thấy cái việc không hay là ngày hôm trước thì kỷ niệm “dựng nước” (tức quốc khánh), ngày hôm sau đã “đại tang”! Chi bằng cho chung vào một ngày vừa kỷ niệm “dựng nước” vừa “nhớ” người “có công dựng nước”. Cả bọn đầu lãnh mafia đỏ đã ủng hộ ý kiến đó, nên mới có cái vụ “tiết lộ” của me-xừ Vũ Kỳ.
Câu chuyện trên do chính giáo sư Từ Chi kể lại, tên của viên “cố vấn tử vi” sẽ được nêu ra vào lúc thích hợp.
Nhiều người đã được giáo sư Từ Chi kể chuyện này. Nhưng có điều kỳ lạ là có người biết như vậy nhưng vẫn a dua và cổ võ mọi người, cùng a dua tấn công nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ, cố tình bỏ qua những phi lý rành rành “như canh nấu hẹ”.
ở đây không phải là sự vô tình, mà “người ta cố ý hư cấu” các sự việc, diễn dịch các sự kiện thật, giả lẫn lộn. Vì sao vậy?
Vì tất cả đều biết rằng Hồ và cái thây ma của hắn là chỗ sinh tử của tổ chức Việt gian mafia đỏ. Nếu đánh vào đó, nghĩa là tập trung công sức vạch bộ mặt thật của họ Hồ ra thì tổ chức Việt gian mafia đỏ sẽ tan vỡ ra từng mảnh.
Chính vì thế, những kẻ có liên quan đến họ Hồ có thể hạ bệ nhau bằng mọi thủ đoạn, nhưng lại nhất trí với nhau bảo vệ và đề cao họ Hồ, như kiểu giữ cái nhãn đã được quốc tế và trong nước cầu chứng. Bọn họ ít nhiều đều đã có cổ phần trong cái công ty Hồ chí Minh, cũng vì quyền lợi cá nhân (hoặc nhóm) nên giả mù không dám phanh phui chuyện kinh doanh đĩ điếm, bài bạc, ma túy của cái công ty đó. Họ không ngu nhưng họ không trung thực và không là kẻ sỹ như nhiều người lầm tưởng.
Cho nên nếu chúng ta không tỉnh táo, vừa cổ võ họ vừa nuốt những lập luận đề cao họ Hồ của họ, có nghĩa là chúng ta chỉ chống vài tên “đang cầm quyền”, chứ không phải là chống toàn bộ tổ chức Việt gian và hệ lụy của nó.
Chẳng cần ai chống thì Trường Chinh cũng thay Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh lại thay Trường Chinh; Đỗ Mười thay Nguyễn văn Linh; Lê khả Phiêu thay Đỗ Mười và mới đây Nông đức Mạnh lại thay Lê khả Phiêu.
Cứ xét những bài viết mạnh bạo của cây bút “chống đối” xuất sắc là ông Trần Khuê thì thấy y như cái “đèn kéo quân”. Vừa mới đề cao Đỗ Mười thì đã quay ra khen Lê khả Phiêu, và rồi lại tin ở sự “ôn hòa” của Nông đức Mạnh. Sau Nông đức Mạnh sẽ đến ai đây? Vì cả ba thằng Mười, Phiêu, Mạnh đều vừa cấu kết bán đất, bán biển cho ba Tàu cộng! Bọn chúng có bán đất, bán biển thì cũng chỉ là đi theo cái việc họ Hồ đã làm từ thập niên 50 mà thôi!
Cho nên đấu tranh cho dân chủ là phải đấu tranh chống từ nguồn gốc sinh ra độc tài mất dân chủ.
Cái nguồn gốc đó là chính cá nhân họ Hồ; là sự lựa chọn đường lối chính trị của họ Hồ; là tổ chức Việt gian mafia đỏ của Hồ, mang cái tên “đảng cộng sản Việt Nam” và cái ngụy quyền “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Bỏ quên Hồ (chứ chưa nói đến đề cao Hồ) mà chỉ tấn công Lê Duẩn hoặc Mười, Phiêu, Mạnh thì chẳng khác gì giặc Minh xưa kia giết Lê Lai để thoát Lê Lợi vậy.
Lê Duẩn, Lê đức Thọ chỉ là những mục tiêu giả hoặc thứ yếu. Nếu thần tượng Hồ chí Minh của tập đoàn mafia đỏ đổ thì sẽ lôi theo không chỉ Duẩn, Thọ v.v… mà sẽ làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tổ chức – cả vật chất cả tinh thần – của tập đoàn Việt gian mafia đỏ, ngụy quyền Hà-nội hiện nay.
Chỉ có như vậy mới thực hiện được sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam, cả trong và ngoài nước, để xây dựng dân chủ và bảo vệ nhân quyền nhằm xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, phồn vinh, trên cơ sở đó gìn giữ và thu hồi đất đai, sông biển của Việt Nam mà tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh đã dâng cho thế lực bành trướng bá quyền nước lớn, là Trung cộng.
Nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng phải thấy được rằng Hồ chí Minh là tội phạm đầu sỏ, tội phạm chính yếu, đã lèo lái cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của hắn để đầy ải người dân Việt Nam trong thân nô lệ, trong kiếp nghèo đói và cũng Hồ là kẻ duy nhất trong lịch sử Việt Nam đã mang đất đai, sông biển của Việt Nam dâng cho ba Tàu. Tất cả nhân sự trong tổ chức “cộng sản Việt gian” đều do Hồ đích thân lựa chọn, đề bạt, giao trách nhiệm thi hành các chính sách phản dân, hại nước của hắn.
Thí dụ: Năm 1958, Phạm văn Đồng nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hồ chí Minh gửi cho Chu ân Lai (thủ tướng Trung cộng) ủng hộ và công nhận việc Trung cộng chiếm các quần đảo Hoàng-sa và Trường-sa, là thừa lệnh ai?Bài 15
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Nên nhớ rằng cái năm 1958 đó, Hồ là chủ tịch đảng mafia đỏ, kiêm chủ tịch nước, kiêm chủ tịch hội đồng quốc phòng. Còn Lê Duẩn mới chỉ là bí thư thứ nhất do Hồ tạm chỉ định để giúp việc cho Hồ. Phải đến tận năm 1960, tại đại hội 3 mafia đỏ, Lê Duẩn mới được thực thụ là bí thư thứ nhất, chứ không phải như hầu hết những người “ly khai” hay “chống đối” nâng Lê Duẩn lên là “tổng bí thư”, để có thể thuyết phục người đọc về vị trí quan trọng uy thế của Duẩn cho phù hợp với cốt truyện “hư cấu” rằng Lê Duẩn khống chế Hồ.
Cũng năm 1958 đó, me-xừ Lê đức Thọ vẫn chỉ là ủy viên trung ương mafia đỏ mà thôi. Phải đến đại hội 3 mafia đỏ (1960), Thọ mới được vào chính trị bộ. Có thể tra cứu lại báo Nhân dân những năm đó để biết danh xưng của Duẩn, Thọ cũng như của Hồ và Đồng xem “hư thực ra sao”!
Với cương vị như thế (vừa là ủy viên chính trị bộ kiêm thủ tướng ngụy quyền) thử hỏi Phạm văn Đồng tuân lệnh Hồ hay tuân lệnh Duẩn và Thọ?(!!!)
Việc đề cao Hồ và bịa chuyện Hồ bị cho ra rìa có mục đích đen tối rõ ràng nhằm bao che:
1- Hồ vô tội trong cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam (căn cứ nghị quyết 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959).
2- Hồ vô tội trong việc dâng Hoàng-sa và Trường-sa cho Trung cộng (sự việc xảy ra vào năm 1958).
Hơn nửa thế kỷ qua, đa số nhân dân Việt Nam nói chung, nông dân Việt Nam nói riêng, bị “liên quan” với cái tổ chức “cộng sản Việt gian” của Hồ không kiểu này thì kiểu nọ; không ít thì nhiều (nhất là phía Bắc Việt Nam), dây mơ rễ muống, nên y hệt như cảnh cái u ở người “để thì buồn cắt thì đau”. Chính vì biết chỗ yếu – cái gót chân Achille – đó của người dân, nên tụi đầu nậu mafria đỏ cố tình khai thác tận cùng sự mơ hồ của người dân về con người thật của Hồ và hắn mới là tội phạm chủ chốt, để đặt ra những “huyền thoại về Hồ” nhằm níu kéo người dân không đủ sáng suốt và bình tĩnh đoạn tuyệt với quá khứ, cắt bỏ mọi liên quan với Hồ và tổ chức cộng sản Việt gian của hắn.
Cho nên cần khẳng định rằng bất kỳ ngòi bút nào dựng ra huyền thoại về Hồ đều có tội đồng lõa, bao che cho tập đoàn cộng sản Việt Nam mà tên đầu sỏ là Hồ chí Minh.
Thử giả dụ như tin thời sự hiện nay, nếu có những ngòi bút nào đó phê phán không khoan nhượng những tên khủng bố Al-Qaida ở New York vừa qua, mà lại dựng ra “huyền thoại về Bin-Laden” rằng hắn “bị cho ra rìa”, hắn không biết gì cả thì chúng ta sẽ nghĩ sao về những ngòi bút đó?
Căn cốt Việt gian bán nước của Hồ có hệ thống từ trẻ đến chết. Cụ thể, tóm tắt như sau:
- Trước khi Hồ xuất ngoại, thế hệ của Hồ có biết bao thanh niên dấn thân cho việc nước. Nhưng Hồ tuyệt nhiên không tham gia một phong trào nào. Hắn chỉ ngoan ngoãn theo cha vào Huế, học ở Quốc-học Huế cho đến khi cha hắn bị cách quan vì giết dân lành vô tội thì hắn bị đuổi học. Thế là hắn vừa lần hồi kiếm sống vừa tìm đường vào Nam hy vọng qua Pháp học ở trường thuộc địa;
- Chân ướt chân ráo tới Pháp là Hồ vội làm đơn xin học ở trường thuộc địa để phục vụ “mẫu quốc Pháp”;
- Khi thấy quốc tế 3 chủ trương giúp các nước thuộc địa, thế là hắn theo luôn, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bậc tiền bối đã cưu mang, dạy bảo, nâng đỡ hắn là các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền;
- Được Nga-xô thu nhận, đưa về Đông-nam-á hoạt động, Hồ liền bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, lấy tiền xài sang và để tổ chức “hội Việt gian” phục vụ cho mẫu quốc đỏ Nga-xô;
- Hồ bán đứng cuộc khởi nghĩa của cụ Nguyễn Thái Học cho mật thám Pháp;
- Hồ bán các thanh niên yêu nước tìm đường ra nước ngoài lập tổ chức để chống Pháp, kể cả bán gia đình, thân nhân và bạn bè của họ. (Báo cáo của Hà huy Tập gửi quốc tế 3, ngày 20-4-1935);
- Khi tiếm được quyền lãnh đạo của cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương”, Hồ đã thanh lọc, giết những người gia nhập “cộng sản” xuất phát từ lòng yêu nước nhưng còn nhận xét ấu trĩ về sự lựa chọn đường lối chính trị, để biến cái tổ chức “cộng sản” đó hoàn toàn thành một tổ chức Việt gian, công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ;
- Hồ đã đề ra đường lối và tổ chức thực hiện những âm mưu đảo chính Chính phủ Liên hiệp, vô hiệu tiến tới thủ tiêu Quốc hội khoá 1 và xé bỏ hiến pháp 1946;
- Hồ đã hoạch định đường lối, bố trí nhân sự để thực thi cái gọi là: “Trí, phú, địa, hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ”.
Nhằm tiêu diệt những cá nhân, những tổ chức yêu nước của nhân dân Việt Nam. Lũng đoạn và làm thoái hóa các hội đoàn tôn giáo. Giết hàng chục ngàn các chức sắc và các tín đồ tôn giáo. Cướp bóc tài sản không chỉ của dân mà của cả các hội đoàn tôn giáo. Phá bỏ truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, phá bỏ bản sắc Việt Nam, giết các sắc dân thiểu số. Tất cả nhằm bần cùng hóa toàn dân, biến toàn dân thành nô lệ kiểu mới, chà đạp nhân quyền, nhục mạ nhân phẩm của người dân. Hỗn láo và coi thường các anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa Việt Nam. Bán rẻ xương máu, tài nguyên, đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang nhằm xây dựng chủ nghĩa thực dân đỏ ở Việt Nam (núp dưới mỹ tự CNXH), thực hiện chiến lược bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô;
- Giáo dục và đào tạo những thế hệ Việt Nam chỉ biết phá hoại, hận thù, đố kỵ, sống bất nhân, bất nghĩa, bỉ ổi không bằng dã thú;
- Hồ là nguyên nhân gây ra cuộc tỵ nạn khổng lồ năm 1954; hơn một triệu người miền Bắc Việt Nam trong tổng số 16 triệu đã ồ ạt bỏ mồ mả tổ tiên từ bao đời, nhà cửa, ruộng vườn v.v… để chạy vào Nam. Nếu không có các khó khăn do vận chuyển, do khủng bố của Hồ thì số chạy nạn sẽ còn nhiều gấp bội;
- Cũng do Hồ phát động vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, khiến cho cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam hao phí tài nguyên, nhân lực, máu xương; đất nước và nhân dân Việt Nam là nơi thí nghiệm vũ khí, là nơi các siêu cường Nga, Mỹ, Tàu mà cả mua bán trên máu xương, đau khổ, tang tóc của Việt Nam; ba thế hệ Việt Nam không biết đến hạnh phúc; lãng phí thời gian dùng vào chiến tranh phá hoại. Tất cả chỉ vì Hồ trung thành thực thi chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ;
- Cũng vì Hồ mưu đồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam, thực thi lịch trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ nên đã phải dâng đất dâng biển cho Trung cộng, khơi dậy lòng tham bá quyền bành trướng có từ ngàn năm của giặc phương Bắc, nay là Trung cộng. Đó là mẫu mực cho bè lũ Lê đức Anh, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Phan văn Khải, Nguyễn văn An và tập đoàn Việt gian cộng sản, ngụy quyền Hà-nội hiện nay noi theo;
- Cũng từ Hồ mà sự kỳ thị Bắc-Nam xuất hiện và phát triển không ngừng, gây hậu quả tiêu cực trên mọi bình diện văn hóa, kinh tế, xã hội của Việt Nam. Và, cũng lần đầu tiên lịch sử Việt Nam phải chứng kiến cảnh liều mạng ra đi của nhiều triệu người Việt Nam để tỵ nạn cộng sản mà chí ít cũng gần nửa triệu người phải bỏ mình dưới biển Đông. Và, Việt Nam cho đến năm 2002 này vẫn áp chót trên thế giới, điển hình về nghèo đói, tội phạm, đĩ điếm, không tự do, không hạnh phúc và nhân phẩm bị chà đạp bởi một thể chế chính trị độc tài, công an trị mà lịch sử Việt Nam chưa bao giờ xuất hiện và tồn tại cho đến khi có Hồ và cái tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn;
- Cũng từ Hồ là kẻ hủy bộ tư pháp, bỏ khoa luật; cai trị bằng sắc lệnh, bằng lệnh miệng; bằng đàn áp khủng bố, phân chia đẳng cấp v.v… cho nên đã đẻ ra, phát triển thành bản chất chế độ là nạn cửa quyền, tham nhũng, ô dù, vô liêm sỉ, vụ lợi vị kỷ, lãng phí cả tài nguyên, con người, trí tuệ và v.v…
Chính lúc Hồ cầm quyền, chưa ai được biết chi, thu như thế nào. Tiền của nhân dân đã chi cho “đảng Việt gian” của Hồ như thế nào. Nghĩa là người dân đúng là “nô lệ”, chỉ biết lao động sản xuất hay chém giết theo sự điều động của Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn. Mọi sự chi, thu v.v…, nghĩa là việc chung của đất nước hoàn toàn không được biết và cũng không cho phép được biết!!!
Nhân sự được Hồ lựa chọn, sử dụng đều là lũ lưu manh, khát máu, đầu hàng, trộm cướp, đĩ điếm với một quá khứ không rõ ràng. Trọn vẹn bọn chúng là lủ lừa thầy phản bạn, bội tín, bất nhân bất nghĩa, vô luân như tạm điểm mặt một số bọn chúng đã nêu ở những phần trên.
Cho nên, sau ngày Hồ chết, người Hà-nội của đầu thập niên 70, được nghe một bài “thơ ghế đá” có tựa đề:
Đảng lợn dê
Lê Duẩn ba vợ, ba nhà
Mỗi người riêng ở một tòa khang trang
Vợ cả già xấu, tính ngang
Vợ ba trẻ đẹp, hai đàng ghen nhau
Vợ cả dứt tóc, đập đầu
Vợ ba gào khóc, hạt châu tràn trề
Người này gớm, kẻ kia ghê
Làm cho Lê Duẩn não nề xót xa
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Chuyện này không khéo lọt ra bên ngoài
Còn gì uy tín của ngài
Trước dân khoe mẽ đức tài vẹn đôi
Luật hôn nhân để đâu rồi
Chồng một vợ một cho người thôi ư
Xét trong đảng của họ Trư
Trai thì thừa vợ, gái dư nhân tình,
Thọ, Đồng hai vợ đình huỳnh
Giáp, Dũng nhân tình nhân ngãi lăng nhăng
Xuân Thủy hết Bình lại Hằng
Trần Độ Thị Định nhập nhằng với nhau
Vợ Liêm rước Côn cổng sau
Bách lấy vợ trẻ bỏ mau vợ già
Trân chơi Gia Tường cả nhà
Lần con lần mẹ chẳng tha người nào
Danh Tuyên dê cụ làm sao
Gọi nhân viên vào hiếp giữa buya-rô
Đến như “đạo đức” họ Hồ
Thế mà hắn cũng dăm cô nhân tình
Cẩn, Thập, Mỹ nên hiển vinh
Cũng vì được hắn làm tình nhiều phen
Dê theo đường cũ đã quen
Từ trên xuống dưới lèm nhèm như nhau
Nói thì đạo đức cao sâu
Làm thì ra lũ đầu trâu mặt người
Nói thì cách mạng đổi đời
Làm thì đói khổ gấp mười thực dân!
Chết còn ướp xác, xây lăng
Lễ nghi bày đặt trăm phần xa hoa
Các vua phong kiến thua xa
Đổi đời “cách mạng” hóa là chủ nô
Lòi đuôi đầy tớ Nga-xô
Buôn xương, bán máu giặc Hồ gian manh
Tượng, bia rồi cũng tan tành
Miệng dân mới thực sử xanh ngàn đời
Lăng xây, xác ướp lỗi thời
Ngàn năm còn để cho đời cười chê
Đúng là đảng lũ lợn dê!!!
Tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội hiện nay đang bị tấn công tới tấp cả ở trong và ngoài nước. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại, cho dù bị “phê bình” là chia rẽ, nhưng vẫn là lực lượng trụ cột làm lay động chế độ mafia đỏ hiện nay ở Việt Nam.
Chính là nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà những nhân vật như Nguyễn chí Thiện, bác sỹ Nguyễn đan Quế, Đoàn viết Hoạt, Dương thu Hương, Bùi minh Quốc, Bảo Ninh, Vũ thư Hiên, Bùi ngọc Tấn, Nguyễn hguy Thiệp, Hòa thượng Thích quảng Độ, Cụ Lê quang Liêm, Cha Nguyễn văn Lý, cựu tướng cộng sản Trần Độ, đại tá cộng sản Phạm quế Dương, phó tiến sỹ Nguyễn xuân Tụ tức Hà sỹ Phu, tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, đồng bào ở Tây Nguyên, nông dân đấu tranh ở Đồng-nai, Thái-bình, Đông-anh (Hà-nội) và v.v... mới được quốc tế biết đến”. Sự phẫn nộ của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (nhất là ở Mỹ) đã khiến tập đoàn khát máu ngụy quyền mafia đỏ Hà-nội phải “uyển chuyển” không dám hiện nguyên hình sói lang. Nếu không, những nhân vật nêu trên đã bị “nấu lẩu”.
Đã có cuộc sống tự do, ổn định, nhưng cộng đồng người Việt vẫn bỏ “tiền túi”, bỏ công sức đấu tranh chống tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền hiện nay ở Việt Nam thì phải khẳng định đây là một cộng đồng yêu nước nồng nàn không vì thời gian mà phai nhạt, không vì no đủ mà ngại khó ngại khổ bỏ quên đồng bào bên quốc nội.
Bản thân tụi đầu nậu mafia đỏ Hà-nội cũng biết cộng đồng người Việt ở hải ngoại là chỗ dựa tin cậy của các cá nhân và tổ chức trong nước đã và đang đấu tranh đòi mọi quyền tự do, quyền làm người, cho nên chúng đẻ ra mọi tổ chức, mọi chính sách, âm mưu gây chia rẽ trong cộng đồng, gây tranh luận những chuyện trời ơi đất hỡi đánh lạc hướng đấu tranh hiện nay của cộng đồng người Việt. Chúng dùng “tiền, quyền, hư danh” mua chuộc những cây bút cơ hội, những văn nghệ sỹ “óc đất gan muỗi” để thăm dò, để thử, để làm lẫn lộn thực giả. Khi thì “trộn” lẫn nhạc sỹ người Việt tự do với tụi trí nô cung đình mafia đỏ; khi thì cho ra những băng video ca nhạc nửa úp nửa mở với nội dung cứ như bồi bút mafia đỏ biên soạn; khi thì thương khóc, kỷ niệm thổi ống đu đủ, nâng những tên mafia đỏ nằm vùng như Trịnh công Sơn thành “thiên tài”; rồi tranh luận nào là “quên quá khứ hướng về tương lai; rồi lần lượt “vinh danh” tất cả trí nô, bồi bút của mafia đoû, không phân tích, mơ mơ hồ hồ đánh đồng loạt. Vụ “Trần Trường” chúng đưa ra để thăm dò phản ứng đã bị nếm mùi thất bại, nên tập đoàn Việt gian mafia đỏ ma giáo hơn, chúng cho một lũ giả tỉnh giả mê, làm như Khuất Nguyên hay Lý Bạch bên Tàu để làm loãng tinh thần, nội dung đấu tranh của cộng đồng người Việt ở hải ngoại.
Những nhà lãnh đạo của cộng đồng người Việt đã bền bỉ kiên trì gần 30 năm đấu tranh; sức mạnh của khối “thầm lặng” đã bộc lộ rõ ràng trong vụ “Trần Trường” đã đem lại an toàn và sự thoát ra ẩn số cho hầu hết những người đấu tranh với mafia đỏ. Nhưng cũng cần dựa vào thực tế đã diễn ra để thấy không phải bất cứ ai bị mafia đỏ trù ép, tù đày đều đáng được ủng hộ mà không phân biệt. Có kẻ “bán của giả” cũng được đón nhận, đề cao để được uy tín “tầm cỡ quốc tế”. Có kẻ dựng ra chuyện bom Mỹ ném làm chết ba trăm ngàn người dân ở Bến-tre!(?) Nghĩa là gấp trăm lần mafia đỏ Hồ chí Minh giết dân Huế năm 1968!!! ở bên Anh lại có chuyện kỷ niệm ngày các Thánh tử vì đạo thì chọn ngày 2-9 và trên tờ Mục Vụ, hai dấu “nặng” được thay bằng hai “ngôi sao năm cánh”??? Có kẻ được thoát tù, được tặng khen của quốc tế, quay lại “từ chối lá cờ vàng ba sọc đỏ”. Thậm chí có kẻ tu hành, tay cầm hộ chiếu “cờ đỏ sao vàng” mà sang tới Mỹ, đến với cộng đồng người Việt nhưng không chịu nhận lá cờ Vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam. Tôn giáo nào bắt buộc được đứng dưới lá cờ này mà không được đứng dưới lá cờ kia? Loại “sư sãi mộc tồn” như vậy thì có họa là “tu hú” tiền dành cho loại “sư sãi mộc tồn” đó, dùng giúp các thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt lại ở Việt Nam hoặc đồng bào ở An-truyền hay Nguyệt-biểu còn hơn rất nhiều, và có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong lúc này.
Gần 30 năm đã qua đi, cộng đồng người Việt ở hải ngoại rõ ràng đã thể hiện tấm lòng sắt son, bền bỉ vì dân vì nước. Hoàn toàn là “cơm nhà việc nước” nhưng đã chứng tỏ sức mạnh có khả năng trấn áp sự man rợ của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh, ngụy quyền cộng sản Hà-nội hiện nay.
Sức mạnh của cộng đồng sẽ được giải phóng hoàn toàn nếu bọn nằm vùng bị vạch mặt chỉ tên, bị tẩy chay (như trong vụ Trẩn Trường); bọn cơ hội đi hai hàng bị lật tẩy. Chỉ có “diệt xong phá hoại nội bộ” thì mới có thể kiến tạo được sự đoàn kết trong cộng đồng, sức mạnh cứu nước sẽ được nhân lên gấp ngàn vạn lần, đóng vai trò quan trọng cùng nhân dân cả nước giành lại quyền làm chủ đất nước Việt Nam, giành lại trọn vẹn đất đai, sông biển của Việt Nam.
Xét về mặt nào cũng vậy, tụi thương khóc tên nằm vùng Trịnh công Sơn, tổ chức vinh danh hắn, còn tệ hại hơn vụ “Trần Trường” và thách đố cũng hỗn xược hơn Trần Trường đối với cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Những cá nhân, tổ chức trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại có kiến thức về luật pháp cũng nên xét xem những kẻ làm đơn xin tỵ nạn cộng sản nay lại vinh danh gia nô của cộng sản công khai như vậy thì là tỵ nạn thiệt hay thâm nhập nằm vùng, có thể đề nghị truy tố về tội khai man để được cư trú hợp pháp rồi hoạt động từng mức độ cho cộng sản hay không. Làm được việc này mặc nhiên sẽ loại được bọn nằm vùng làm trong sạch hàng ngũ người Việt ờ hải ngoại để trở thành chỗ dựa vững chắc, tiếng nói chính nghĩa của mọi hình thái đấu tranh tại quốc nội, chống tập đoàn mafia đỏ tiếm quyền ở Việt Nam hiện nay.
Tội ác diệt chủng, bán nước của tập đoàn Việt gian cộng sản từ họ Hồ đến nay là Nông đức Mạnh đã rành rành. Cho nên không thể ỷ y vào “tự do” ở thế giới phương Tây để ca ngợi, vinh danh, hà hơi tiếp sức dù bằng kinh tế, hay kỹ thuật, hay văn hóa cho tụi Việt gian. Tất cả mọi sự hà hơi, tiếp sức cho Việt gian chỉ có thể kết luận đó là Việt gian hoặc hành động Việt gian!!!
Toàn bộ nhân sự, kiểu tổ chức, đường lối chính sách của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cho đến nay có bề dài thời gian hơn nửa thế kỷ, đủ để soi rọi rõ ràng cũng như chúng đã bộc lộ rành rành là một lũ băng đảng mafia, Việt gian; là nguồn gốc của tham nhũng, đĩ điếm, phá hoại, vô luân v.v… Và đặc biệt là trong lịch sử Việt Nam, tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh là tập đoàn duy nhất có chính sách nhất quán bán tài nguyên, con người và đất đai, sông biển của Việt Nam cho ngoại bang!!!
Tất cả mọi đường lối chính sách từ khi Hồ còn cầm quyền cho đến khi hắn chết được bè lũ do Hồ đào tạo để thay thế hắn từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh đều thực hiện khẩu hiệu:
“Đối nội đàn áp thẳng tay
Đối ngoại đầu hàng, kết thân”
Và, đứa nào “nối nghiệp” cũng đều củng cố và nắm vững “cơ quan chuyên chính” là binh lính và công an cùng với độc quyền nắm chặt túi tiền.
Tùy theo tình hình quốc tế và mức độ giác ngộ của dân chúng, việc thực hiện các chính sách phản dân hại nước của chúng có màu mè, uyển chuyển xoay quanh cái trục là hai khẩu hiệu hành động nói trên.
Những cây bút “chống đối” ở trong nước thường phê phán việc đệ tử của Hồ đã thay đổi hiến pháp và sao chép điều 4 theo nội dung của hiến pháp Nga-xô (việc độc quyền của mafia đỏ) là làm sai đường lối của Hồ. Họ cố tình nhắm mắt giả làm “thầy bói sờ voi” để hô hoán rằng cái tai con chó Lê Duẩn, cái đầu con chó Trường Chinh, cái “giống” con chó Đỗ Mười, cái chân con chó Lê khả Phiêu, cái đuôi con chó Nông đức Mạnh không giống con chó sói Hồ chí Minh! Họ cố tình bỏ qua việc Hồ là kẻ mở màn việc hủy hiến pháp 1946 đẻ ra hiến pháp 1959 mà không “trưng cầu dân ý”. Họ cố tình không dám nghiên cứu xem âm mưu “cải cách ruộng đất” rồi “sửa sai cải cách ruộng đất”, “rèn cán chỉnh quân”, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “chỉnh đốn tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, “ôn nghèo nhớ khổ”, “xây dựng con người mới XHCN”, “đào tạo cháu ngoan bác Hồ “ v.v… nhằm mục đích gì?(!) Họ cố tình quên việc Hồ trực tiếp ra lệnh cấm các đảng Dân chủ và Xã hội không được kết nạp đảng viên mới, không được phép xin ra đảng trừ khi bị chết (để tiện quản lý) và trong mỗi đảng có một “chi bộ cộng sản” trực tiếp lãnh đạo, giúp việc cho một “phái viên cộng sản” chịu trách nhiệm chung (cụ thể là các tên Phạm Hồng, Nguyễn việt Nam, Phạm tuấn Khánh – Cứ trực tiếp gặp các ông Hoàng minh Chính và Phạm tuấn Khánh hỏi xem để biết “hư thực ra sao”). Họ cố tình không nói đến việc Hồ “ị” ra cái gọi là “mặt trận tổ cuốc” để gom toàn dân theo nghề nghiệp, giới tính vào cái lồng gọi là “tổ chức riêng biệt của từng giới”; rồi tất cả những cái lồng đó lại được xếp trong cái sân nuôi “gà vịt” có lưới thép bao quanh, mang tên “mặt trận tổ cuốc”! Lý lịch của “bầy gà vịt” trong “mặt trận tổ quốc” do cục 78 bộ công an ngụy quyền Hồ chí Minh quản lý hộ. Và, khi nào, con gà nào được đưa đi hội chợ, con nào được cho ra “chọi thi”, con nào sẽ “luộc”, sẽ “quay”, sẽ “tấn”, sẽ “bóp gỏi” đều có sự bàn bạc của tên “quản lý trại gà”, và với cục 78 bộ công an ngụy quyền. (Thời điểm hiện nay, tức dưới thời họ Nông, vì tầm quan trọng nên do hai tên ác ôn là Phạm thế Duyệt và Lê minh Hương chỉ đạo việc lực chọn).
Hiến pháp 1959 của Hồ không có khoản nào như điều 4 của hiến pháp 1992 của đệ tử của Hồ là vì từ lúc bè lũ Hồ nhếch nhác vào Hà-nội 1954, tạm quản lý từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc thì bằng những chính sách nói trên, Hồ đã giết, đã bỏ tù toàn bộ các nhân sỹ yêu nước, các đoàn thể không cộng sản, các hội đoàn tôn giáo, các chức sắc tôn giáo v.v… cho đến cả những người vì nước bị đánh lừa vào tổ chức cộng sản. Nghĩa là toàn bộ những cá nhân, những tổ chức mà Hồ cho là vật chướng ngại, là không thích hợp cho việc thực thi chủ nghĩa thực dân đỏ. Hồ lại còn vô sản hóa toàn dân, biến tất cả thành nô lệ nên cần gì phải có cái kiểu như điều 4 hiến pháp 1992. Làm gì còn tổ chức nào, làm gì còn ai dám ra tranh quyền với Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn.
Trong thực tế, dưới tay Hồ cầm quyền, từ ngụy quyền Hà-nội với tất cả các ngành các bộ; từ các đại biểu “cuốc” hội; từ các thế lực chỉ đạo mặt trận tổ “cuốc”; từ đầu nậu các cái gọi là đoàn thể quần chúng; từ sinh viên, học sinh, xã viên hợp tác xã, công nhân, nông dân; từ sỹ quan ngụy, sỹ quan công an, thuế vụ v.v… chẳng có chỗ nào có “đối lập”, chẳng có “chỗ nào dám đối lập” vì tất cả đã được làm mồi cho giun hoặc đi “học tập” với “ngục sỹ Nguyễn chí Thiện”. Rồi bộ tư pháp bị hủy bỏ, không có khoa luật ở các trường; Hồ cai trị bằng sắc lệnh và lệnh miệng. Nghĩa là cái gọi là điều 4 được thực thi trọn vẹn và triệt để đến mức chẳng cần ghi vào hiến pháp vừa lòng thòng vừa lộ mặt chó sói của Hồ
Xin lưu ý bạn đọc và các cây bút “chống đối” ở trong nước mà “đề cao Hồ”, rằng: Hồ là loại “siêu”, hắn không thèm ghi vào hiến pháp mà hắn cứ việc làm còn quá đáng hơn các đệ tử của hắn ghi vào hiến pháp “mới”! Dám làm!!!
Các vị đều nếm mùi họ Hồ rồi, sao cố tình quên làm “chi dzậy”. Mong các vị, toàn là những học giả đầy lý luận, có dũng cảm “chống đối” tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay hãy dũng cảm nhìn vào quá khứ thời họ Hồ để thấy một sự thật rõ ràng bằng cả số liệu, bằng cả hình ảnh rằng:
Họ Hồ là cái gốc của mọi tội ác giáng lên đầu nhân dân đất nước Việt Nam, còn lũ kế nghiệp Hồ từ Lê Duẩn trở đi chỉ là các cành lá có kích thước, thậm chí mọc theo phương hướng khác nhau nhưng vẫn là cùng chung một gốc. Chỉ có chặt cái gốc mới tiêu diệt được mọi tội ác mà nhân dân và đất nước Việt Nam đã và đang phải gánh chịu!!!
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao lũ đệ tử của họ Hồ phải trắng trợn nặn ra cái gọi là “điều 4 hiến pháp ngụy quyền cộng sản 1992” và khai tử luôn hai cái đảng bại liệt Dân chủ và Xã hội?
Câu trả lời thật ra rất đơn giản và rõ ràng. Chỉ có điều vì thiếu “tư duy khoa học”, thiếu dũng cảm và trung thực nên người ta cố tình “nhắm mắt” giả ngủ mê, ú ớ nói mơ những điều mơ hồ vô nghĩa.
Nhiều người đang đóng vai tiến bộ, ăn nói mạnh bạo nhưng chỉ đề cập đến những cái thứ yếu, mà vẫn né cái thực tế lù lù như thái sơn.
Xin lặp lại chuyện cũ, bắt đầu từ trước 30-4-1975. Đó là “vụ án nhạc vàng” ở Hà-nội. Nhiều thanh niên Việt Nam ở Hà-nội khi đó, có cả cháu dâu Phạm văn Đồng, là diễn viên điện ảnh nổi tiếng, tên gọi là Trà Giang (ủy viên ban chấp hành hội liên hiệp văn học nghệ thuật, trụ sở tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà-nội) thường tụ họp nhau hát “nhạc vàng”. Tức là hát những bài hát của Việt Nam Công Hòa được phát trên làn sóng điện đài mà họ lén nghe và học htuộc được. Nạn nhân chính của vụ án nhạc vàng là ông Toán “xồm”, khi bị tòa án mafia đỏ Hà-nội cật vấn, đã thành khẩn “nhận tội” yêu thích chế độ miền Nam mà chỉ do giai điệu và lời bài hát của miền Nam mà thôi. Kết quả là ông Toán bị kết án 12 năm tù khổ sai. Những người chung vụ bị án từ 6 năm đến 10 năm tù. Nhưng trên thực tế chẳng ai được ra tù sau khi mãn hạn, mà ở mút chỉ luôn, có người bỏ xác lại nhà tù của “ông tiên” của Lữ Phương! Riêng Trà Giang thoát hiểm vì có cái ô dù là Phạm văn Đồng, mặc dù Trà Giang còn “táo tợn” nhận xét: “Nhạc miền Nam tình người chứ không gân guốc sắt máu như nhạc miền Bắc!”
Phóng viên AFP ở Hà-nội khi đó đã đưa tin và nhận xét nhẹ nhàng đại ý rằng: “Theo luật pháp hiện hành của Hà-nội thì không có khoản nào nói rằng thích trong tư tưởng một chế độ xã hội nào đó mà bị coi là có tội”.
Tổ tiên ta đã dạy rằng: “Trăm nghe không bằng một thấy. Trăm thấy không bằng một sờ. Trăm sờ không bằng một nếm”. Nhóm ông Toán chỉ “nghe” mà đã “yêu thích chế độ miền Nam”. Còn Trà Giang, công dân loại 1, loại siêu (vì Trà Giang còn là đại biểu “cuốc” hội ngụy quyền Hồ chí Minh), được ngụy quyền Hà-nội phong tặng danh hiệu “nghệ sỹ ưu tú”, “nghệ sỹ nhân dân” mà nhận xét nhạc miền Nam tình người, còn nhạc mafia đỏ thì sắt máu. Chắc chắn chẳng ai ép buộc, dụ dỗ ông Toán và diễn viên Trà Giang phải nói như vậy. Có nghĩa là nhận xét chân thành từ trái tim.
Vì sao có nhận xét đó? Vì các loại hình nghệ thuật trong tay Hồ chí Minh không được phục vụ nhu cầu thẩm mỹ mà là phương tiện kích động để thực hiện “tư tưởng” của Hồ là chém giết. Ngay trong giáo dục cũng vậy. Các em bé đi vườn trẻ, nói còn chưa sõi đã nghe “cô giáo” kể chuyện “Anh “bộ đội” mỗi ngày giết bao nhiêu “lính ngụy””. Rồi “cô giáo” hỏi các em: “Lớn lên các em làm gì?” Tất nhiên các em được dạy để đồng thanh trả lời: Lớn lên em cầm súng giết Mỹ-Ngụy”. Cô giáo hân hoan: “Đúng! Các em giỏi lắm! Các em sẽ là “bộ đội bác Hồ” giết thật nhiều Mỹ-Ngụy”. Nhiều em về nhà vẫn còn bị ám ảnh việc giết người như thế, nên có em hỏi cha mẹ: “Bố mẹ có muốn giết Mỹ-Ngụy không?”
Cho uống mật gấu cũng chẳng ông bố bà mẹ nào dám nói không. Chưa nói đến việc nhiều gia đình, bố mẹ còn hùa theo: “Phải giết thật nhiều mới là cháu ngoan bác Hồ”.
Nội dung nghệ thuật và định hướng giáo dục đó của Hồ chí Minh đã “đơm bông kết trái”. Thí dụ cụ thể: hai đứa con trai của Đinh thị Cẩn (người tình của Hồ), phó chủ nhiệm thường trực ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ, nghe bạn cùng lớp có xích mích với một thanh niên nào đó, đã cầm dao giết người giữa thanh thiên bạch nhật ở phố Huế (cạnh tiệm phở Tân Việt). Khi biết giết lầm người chúng chẳng chút ăn năn mà còn định đi giết nữa. Dân qua đường, không biết chúng là con mụ Đinh thị Cẩn nên bắt giao cho công an, tạm giam ở Hỏa-lò. Ngay tối đó Hoàng quốc Việt đích thân lái xe hơi đến đón chúng ra, rồi cho qua Nga-xô học.
Con trai tướng Nguyễn văn Vịnh cũng vậy. Một ông già đi xe đạp lúc tan đá bóng ở sân Hàng Đẫy (Hà-nội) ra, chập choạng tay lái va phải nó, thế là nó rút dao đâm chết ông già, nhổ nước miếng bỏ về nhà ở đầu Cao Bá Quát, gần ngay đó. Bị dân la ó, công an đuổi theo, khi thấy nó vào nhà Nguyễn văn Vịnh (lúc đó đã bị quản thúc vì vụ án xét lại), công an mở số lùi. Thằng sát nhân đó cũng được cho vội qua Nga-xô để đào tạo.
Bài 16
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Sân bệnh viện 308 (tức bệnh viện Đồn Thủy cũ) chiếu phim ngoài trời, một thằng nhỏ 10 tuổi bị một bà già đặt ghế ngồi lên trước nó, thế là thằng nhỏ về nhà lấy dao ra đâm bà già chết tươi.
Những chuyện trẻ em trên dưới 10 tuổi đâm chết người xảy ra như cơm bữa ở khắp nông thôn, thành thị miền Bắc Việt Nam vào lúc Hồ chưa ngỏm. Nơi xảy ra khá phổ biến và giết người một cách tàn nhẫn, như sát thủ chuyên nghiệp, lại chính là khu tập thể sỹ quan ngụy cấp tá ở Đống Đa (Hà-nội).
Xin lưu ý rằng chuyện trẻ con giết người ở miền Bắc Việt Nam khi ấy là phổ biến và đều khắp ở mọi địa phương. Và, trẻ con, “những cháu ngoan bác Hồ” trở thành tai họa của xã hội. Chúng đi hàng đoàn, chọc ghẹo các người già; mới trên dưới 10 tuổi mà đã rượt theo bao vây những cô gái đi một mình để bóp vú, cấu mông. Nhiều vụ “hiếp dâm” tập thể của con nít đã xẩy ra (chuyện này nếu cho là “chưa thuyết phục” thì Lữ Phương có thể hỏi ông Kỳ “sữa”, cán bộ cao cấp của ngành du lịch ngụy quyền Hà-nội, xem bản thân ông ta trong một thời gian bao lâu và đã chứng kiến bao nhiêu vụ; hoặc có thể hỏi trung tướng công an mafia đỏ, nguyên tổng cục trưởng tổng cục bảo vệ kinh tế, khi còn là phó giám đốc công an mafia đỏ ở Hà-nội, xem hắn đã thụ lý bao nhiêu vụ, và ngay con trai hắn cũng ngang nhiên “bóp vú” cô giáo ở trường Lương-yên (Hà-nội); hoặc hỏi Hồng Vinh, nay là ủy viên trung ương mafia đỏ, chủ tịch hội nhà báo (láo) của mafia đỏ kiêm phó ban văn hóa tư tưởng (phó cho Nguyễn khoa Điềm), xem ngày hắn từ Hà-tĩnh về làm phóng viên nội chính của báo Nhân dân, hắn đã được đọc bao nhiêu biên bản về con nít giết người, hiếp dâm tập thể; cũng như hắn đã đọc bao nhiêu bản kiểm điểm của gái điếm bị giam ở Phủ-lý, Hoà-bình và Thái-nguyên khai đã được “công an”, cạo đầu mặc áo sư về trụ trì ở các chùa, đưa vào chùa hành lạc như thế nào. Vì tất cả mọi vụ nói trên bị Hồ xếp là “tiêu cực” do hậu quả của “chủ nghĩa thực dân mới” nên không bao giờ được đưa tin trên báo, đài).
Cầm sách giáo khoa lớp 1, lớp 2 của ngụy quyền Hồ chí Minh biên soạn và phát hành mà hãi hùng. Trong phần học tính cộng, tính trừ cho lứa tuổi lên 6, lên 7 mà được dạy như sau:
- Hôm trước anh “bộ đội giải phóng” bắn chết 3 “thằng lính ngụy”, hôm nay lại bắn chết 5 “thằng” nữa. Hỏi trong 2 ngày anh “bộ đội giết được bao nhiêu”?
Trẻ em, “cháu ngoan bác Hồ”, ở lứa tuổi “đi ỉa còn phải có người lớn rửa đít cho” mà đã bị nhồi nhét toàn chuyện giết người thì hỏi rằng dù có cố tình đến đâu cũng không thể chạy tội cho tên Việt gian Hồ chí Minh về dã tâm của hắn muốn biến nhân dân Việt Nam thành sát thủ binh nô cho chiến lược toàn cầu của mẫu quốc đỏ.
- Nếu ai đó hỏi một đứa bé lớp 1 (tức 6 tuổi) rằng: “Lính ngụy là ai?” thì được nghe trả lời: “Là lính Sài-gòn!!!” Thật là đơn giản mà cũng thật là nguy hiểm và đau lòng cho những ai còn nghĩ đến Việt Nam.
Thật là rõ ràng họ Hồ muốn “trồng” những “con người mới XHCN”, là những con người chỉ có trong đầu một tiếng “giết”, và đối tượng để “giết” là Sài-gòn! (Nghĩa là nhân dân miền Nam). Cho nên chẳng có gì lạ, khi Bùi bình Thi và Đỗ Chu (hai nhà văn ngụy quân cộng sản) trong chuyến đi theo lính ngụy cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam 1975, chút xíu bị “bắn” tại Tây-ninh, chỉ vì thấy đám lính ngụy cộng sản, tuổi chừng 17 cho đến 20 là cùng đã chôn cơm chúng ăn còn thừa chứ không cho các em nhỏ ở Tây-ninh lạc gia đình bị đói xin ăn, nên “phê bình” chúng. Bọn ngụy quân cộng sản trẻ tuổi đó (lính của tướng Trần Độ) tuyên bố với Bùi bình Thi và Đỗ Chu rằng: “Địt mẹ, cho chết cha nó hết cái giống ngụy đi!!!” (Lữ Phương có thể điện thoại hỏi Bùi bình Thi (ở Hà-nội) và Đỗ Chu (Bắc-ninh) để biết “hư thực ra sao”). Nếu “ông phó chính ủy ngụy quân cộng sản ở miền Nam” không giáo dục quân lính cộng sản vào Nam lòng căm thù ngụy như thế thì “bố tiên sư mấy thằng nhóc lính ngụy cộng sản đó” đâu dám làm tàng mà “tuyên bố” như vậy, mà còn định “bắn” ngay chính 2 nhà văn ngụy quân cộng sản của chúng, chỉ vì muốn chúng chí ít cũng “thử làm người một lần”.
Đường lối giáo dục của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” của mấy cây bút “chống đối” là như vậy.
Còn đường lối thương nghiệp của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” như mấy cây bút “chống đối” hư cấu thì như thế nào?
Hồ ví von rằng “cán bộ thương nghiệp và mậu dịch viên là nàng dâu trăm họ”. Nói kiểu đó, từ mồm Hồ mà ra, thì muốn hiểu sao cũng được. Tốt nhất là đưa thí dụ cụ thể cùng cách giải quyết của Hồ.
Câu chuyện Hồ “hóa trang” ra chợ Đồng-xuân (Hà-nội) mua 150gr tem tiêu chuẩn thịt của người già, nhưng “mậu dịch viên” của ngụy quyền Hồ chí Minh, đã ném một cục xương cho Hồ, như đã nêu ở trên, mà Hồ cũng lờ đi. Cho nên “mậu dịch viên”, theo chính sách “nắm chặt bao tử của dân” của Hồ, trở thành “đại diện thường trực” của Hồ để uốn nắn giáo dục người dân trở thành ngoan ngoãn chấp nhận mọi điều phi lý, mọi sự sỉ nhục, mọi hành hạ y như con thú trong giờ được huấn luyện.
Hà-nội, thuở Hồ còn ngự trị, là nơi duy nhất, có nghĩa là duy nhất cho cả miền Bắc XHCN của Hồ, là có bán bánh “Su-kem” ở cửa hàng Bô-đê-ga, ở phố Tràng-tiền. Người mua phải xếp hàng (cũng được); mỗi người chỉ được mua một cái (cũng được); nhưng “mậu dịch viên” bắt khách hàng phải ăn tại chỗ hoặc nếu muốn mang về thì chí ít phải cắn ăn tại chỗ một miếng đã rồi mới được mang chỗ còn thừa về nhà. Vô lý đến như vậy mà mọi người vẫn phải chấp nhận. Khi biết chuyện này, Hồ cho gọi Hoàng quốc Thình, lúc đó y giữ chức bộ trưởng nội thương của ngụy quyền, và hỏi hư thực ra sao. Thình xác nhận là có chuyện đó, vậy mà Hồ khen: “Nhân dân chịu khó xếp hàng mua bánh ăn như vậy chứng tỏ đời sống có tiến bộ”!!! Hoàng quốc Thình khoái quá, khoe với mọi người về chuyện này. ở cỡ “bộ trưởng” mà óc bã đậu như vậy. Hoàng quốc Thình đâu biết âm mưu của Hồ là dùng mọi biện pháp, trong đó có thương nghiệp, để huấn luyện toàn dân miền Bắc thành người gỗ, không biết phản ứng trước mọi sự phi lý; không biết liêm sỉ khi nhân phẩm bị chà đạp. Nên Hồ “rất hài lòng” về câu chuyện cách bán bánh ở cửa hàng Bô-đê-ga (Hà-nội). Nó giúp Hồ kiểm chứng hiệu quả “trồng người” của Hồ!
Trong tay Hồ nhào nặn, ngay cái gọi là “trí thức XHCN” cũng thoái hóa, bệ rạc. Thí dụ như bác sỹ Trần duy Hưng, nhờ hết lòng thờ phụng, tôn kính Hồ nên được Hồ chọn cho làm chủ tịch Hà-nội cho cân đối với bác sỹ Trần văn Lai thời chính phủ Trần Trọng Kim. ở cương vị “chủ tịch Hà-nội”, ngày nào bác sỹ Trần duy Hưng cũng được nhiều nơi mời đi tiệc tùng hiếu hỷ. Tất nhiên bác sỹ Trần duy Hưng đâu biết phép “phân thân” như “Tề thiên đại thánh”, nên chỉ có thể dự được ở một nơi. Khi chưa theo Hồ chắc chắn bác sỹ Trần duy Hưng nhớ làm lòng câu dạy của ông cha chúng ta rằng: “Miếng ăn là miếng nhục”. Nhưng khi thành đảng viên mafia đỏ và là kẻ tôn thờ Hồ thì với bác sỹ Trần duy Hưng, miếng ăn không như ông cha chúng ta dạy bảo, nên bác Sỹ Trần duy Hưng để vợ đến tất cả đám tiệc, mà bác sỹ Trần duy Hưng không đến được, để lấy hết phần ăn của bác sỹ Trần duy Hưng mang về!!!
Trẻ em còn khờ khạo nên dễ bị Hồ nhào nặn đã đành. Ngay “trí thức thời Pháp” để lại như bác sỹ Trần duy Hưng mà Hồ uốn cũng dễ như chơi!
Xin đưa vài thí dụ nữa kẻo me-xừ Lữ Phương lại nói rằng đó là cá biệt.
Tạm điểm đến luật sư Phan Anh. Ông luật sư này đã từng được coi là cấp tiến, đã từng là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim. Ông ta cũng từng lập ra “Phong trào thanh niên Phan Anh” (na ná như phong trào của Kỹ sư Kha vạng Cân ở trong Nam trước 1945 vậy). Và, cũng từng là bộ trưởng quốc phòng của Chính phủ Liên hiệp đa đảng (của những năm 1945-1951), bị Hồ đánh lừa qua hội nghị Fontainebleau ở Pháp nên để chiếc ghế bộ trưởng quốc phòng lại cho Giáp. Thời Tây, ông luật sư Phan Anh này đã từng cãi trong vụ án của ông “Hoàng minh Chính mà tiến sỹ Nguyễn thanh Giang của Hà-nội, mới đây có viết bài, khen tài cãi của ông Phan Anh khiến tòa án thực dân Pháp phải thua!(?)” (Không biết tiến sỹ Nguyễn thanh Giang có quá chủ quan không, chứ tài cãi của ông Phan Anh thuở đó không có nổi tiếng như các luật sư Nguyễn mạnh Tường, Trần văn Chương và ngay cả với luật sư Đỗ xuân Sảng). Ông ta là luật sư nhưng nổi tiếng về tổ chức các hoạt động thể dục thể thao. Còn tòa án thực dân Pháp thua trong vụ Hoàng minh Chính vì nó là công cụ của “thực dân xanh”, nên nó cũng biết tôn trọng “trò chơi pháp trị” chứ không dùng “luật chó sói của Lafontaine” như Hồ và “thực dân đỏ”! Cho nên Phạm Hùng, bị án tử hình, đang nằm chờ bị chém, được phái đoàn quốc hội Pháp qua, xét lại và cho hạ thành 9 năm tù (còn thua cha Nguyễn văn Lý mới đây bị án 15 năm tù thêm 5 năm quản thúc) thì làm gì có luật sư Phan Anh. (Xin đọc hồi ký “Hai lần án chém” của Phạm Hùng để có dịp so sánh “luật thực dân xanh” với “luật thực dân đỏ”!)
Luật sư Phan Anh dưới thời thực dân Pháp, dưới thời cụ Trần Trọng Kim cho đến một giai đoạn nhất định của Chính phủ Liên hiệp 1945-1951 (vì sau 1951, trên thực tế Chính phủ Liên hiệp đa đảng đã bị Hồ đảo chánh ngầm) thì oai phong, hào hùng như vậy. Khi vào tay Hồ, tuy được cho làm bộ trưởng ngoại thương nhưng thực quyền là ở trong tay Lý Ban và Nguyễn văn Đào. Cho nên luật sư bộ trưởng Phan Anh cũng… đói. Vợ con cũng thèm thịt. Vì thế mới dính vào chuyện của “anh chị xui” là phó thống đốc ngân hàng nhà nước trong vụ “ăn cắp tiền rách” để mua “giò chả” của Tân Việt hoặc của bà giáo Tích, và ăn bún thang bà Chưởng Đen ở chợ Đồng Xuân (Hà-nội)!
Thêm một thí dụ nữa về ông giáo sư bộ trưởng văn hóa Hoàng minh Giám. Hiên con trai ông ta đang là giám đốc sở thể dục thể thao Hà-nội.
Ông Hoàng minh Giám được Hồ cài vào đảng Xã hội, giữ chức phó tổng thư ký mà ông kỹ sư giám đốc nha khí tượng Nguyễn Xiển là tổng thư ký. Ông Hoàng minh Giám cũng là bộ trưởng bộ văn hóa, tiền nhiệm của Nguyễn văn Hiếu từ “bưng” sang Trung cộng làm “đại sứ” của “chính phủ phường chèo”, sau 1975 về thay ông Giám. Đi đúng con đường “giải phóng phụ nữ” của họ Hồ, nên mặc dù đã có vợ lai Pháp rất xinh đẹp, sau khi toa rập với Hồ, ông ta “dân tộc hóa hôn nhân” nên lấy thêm bà vợ hai là Việt 100%. Sau 1954, vào được Hà-nội, họ Hồ cho ra đời chế độ cung cấp đặc biệt cho “cán bộ” cao cấp của Hồ. Ông Hoàng minh Giám cũng được một thẻ cung cấp đặc biệt như mọi nhân viên cao cấp khác trong ngụy quyền Hồ chí Minh. Nhưng, khổ nhất là ở chữ “nhưng” này, vì ông ta hai vợ, ở hai vi-la: bà cả vi-la trước bệnh viện St. Paul; bà hai ở vi-la đường Tăng Bạt Hổ, liền tường bệnh viện bưu điện (sau bệnh viện bưu điện bị đuổi xuống khu Chợ Trời, chùa vua, để cho đại sứ Hà văn Lâu cư ngụ), cho nên ông ta phải đặt kế hoạch mỗi bà giữ thẻ cung cấp đặc biệt một tuần. Thành ra mỗi bà “một tuần no tiếp theo một tuần đói”. Chẳng biết “kẻ xấu” hay “phản động” nào xúi bà cả rằng ở cương vị vợ lớn việc gì phải chịu cảnh “ngang vai phải lứa” với bà hai. Lúc được xúi bậy như vậy thì tấm thẻ đang trong tay bà hai. Bà cả bèn đi thẳng tới bộ văn hóa (đường Ngô Quyền, Hà-nội) gặp ông Giám và nói rõ ý định của bà và yêu cầu trả lại thẻ cung cấp đặc biệt cho bà. Ông Giám sợ mất uy tín ở ngay văn phòng cơ quan, nên hứa lèo là chiều về nhà bà hai lấy rồi đem lại ngay. Chiều về ăn cơm với bà hai, ông Giám có dám mở miệng hay không thì còn là việc bí mật. Ăn cơm xong, ông Hoàng minh Giám tề chỉnh trong bộ đại cán 4 túi, màu xanh sẫm, ra xe hơi Volga màu vàng nhạt, đi chủ trì lễ khai mạc hội diễn chuyên nghiệp ở rạp Hồng-hà (tức rạp Olympia cũ ở phố Hàng Da). Vừa trong xe hơi bước ra, ông bị bà cả phục kích, xoắn cổ áo, thẳng tay cho một chưởng độ 5 thành công lực, khiến máu mũi tuôn ra. Bảo vệ vội giữ bà cả, để ông tháo chạy vào hậu đài.
Nghe chuyện này, Hồ cười cười. Và, hôm sau khi thư ký riêng của Phạm văn Đồng, kiêm vụ trưởng vụ tổng hợp phủ thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, là Việt Phương, lên báo cáo tình hình như thường lệ, Hồ cho ý kiến rằng: “Đồng chí nào hai hoặc ba vợ thì từ nay mỗi vợ được riêng một thẻ cung cấp đặc biệt.” Thế là Trần huy Liệu cũng được hai thẻ, một cho bà vợ già khú đế và một cho bà hai cực xinh đẹp, nguyên là vợ Phạm Giao, con cả Phạm Quỳnh, do Trần huy Liệu giết chồng, cướp vợ. Khi Trần huy Liệu chết, bà vợ già nhất định đánh ghen trong ngày truy điệu. Cũng cái lệnh của Hồ là cho tổ chức truy điệu hai ngày: một cho bà cả chủ trì và một cho bà hai chủ trì. (Lữ Phương có thể hỏi ngay chính Trần văn Giàu về chuyện này xem để thấy việc lớn việc nhỏ đều qua tay Hồ, thì làm sao có chuyện Hồ bị “cho ra rìa”!)
Ngay những bậc gọi là loại “đại trí thức” như giáo sư thạc sỹ y khoa Hồ đắc Dzi, con rể tổng đốc Vi văn Định, anh em “cọc chèo” với tiến sỹ bộ trưởng giáo dục Nguyễn văn Huyên, là giám đốc trường đại học y khoa Hà-nội, tối tối hai vợ chồng cùng vợ chồng giáo sư bác sỹ Tôn thất Tùng (cháu rể Vi văn Định) ra tiệm phở “thím Liên Tàu” ở sân số nhà 34 Phan Chu Trinh ăn phở. Khi những tô phở nóng hổi vừa được bê ra, bà vợ giáo sư Hồ đắc Dzi cẩn thận moi trong xắc tay ra một lọ nhỏ. Đó là lọ “mì chính” (tức bột ngọt). Bà ta trịnh trọng chia cho mỗi tô phở một chút bột ngọt. Đó là của quý với dân thường Việt Nam, có lẽ như vụn kim cương vậy. Chỉ chút bột ngọt mang theo đó đủ là nhãn hiệu cầu chứng loại “cao cấp”, có khi giá trị hơn khệ nệ ôm theo cái bằng thạc sỹ. Nếu Lữ Phưong vẫn thấy chưa “thuyết phục”, xin điện thoại hỏi Hồ thể Lan, người phát ngôn của ngụy quyền Hà-nội, cũng là con gái thạc sỹ Hồ đắc Dzi xem có đúng 100% không! Hay hỏi giáo sư Tôn thất Bách cũng được.
Hai cập vợ chồng “đại trí thức” ấy được Hồ huấn luyện đến mức khư khư giữ lọ bột ngọt bằng ngón chân cái đó còn hơn giữ gia phả!!!
Hai vợ chồng Trần văn Giàu, tối nào chẳng “đi guốc gỗ” từ căn nhà góc đường Ngô Quyền – Hàm Long, đến “phở thím Liên Tàu” cùng ăn với Phạm ngọc Thạch, bộ trưởng y tế. Còn luật sư Nguyễn thành Vĩnh, từng là chủ tịch Mặt trận Liên Việt Nam bộ, thì gầy như bộ xương cách trí, mặc chiếc quần thâm của vợ, bê cái tô ra, cũng tiệm phở đó, mua về cho vợ con. Còn bản thân ông ta nhịn để giữ eo (mặc dù cân nặng độ 40kg)! Ông Vĩnh ở căn gác liền tường với khách sạn Hoàn Kiếm, là nơi cư ngụ của cái chính phủ phường chèo ở bưng, nhưng từ cấp thứ trưởng như Lữ Phương thì chưa đủ tiêu chuẩn ở chỗ đó, nên không có dịp như các ông, bà Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa, Trần bửu Kiếm v.v… để tận mắt thấy ông Vĩnh mặc quần của vợ thải ra với áo may-ô màu nước phở đi mua phở nhưng không dám ăn!
Với người có thiện chí thì những thí dụ “người thật việc thật” như trên là tạm đủ. Còn với Lữ Phương chắc vẫn còn “để xem sao!”
Qua chuyện kể trên, có thể có câu hỏi: Vậy là đời sống “cán bộ” cao cấp của Hồ đâu có xa hoa?
Thưa rằng không phải thế.
Hồ tổ chức ra hai bộ phận cung cấp. Về phía ngụy quyền thì do bộ nội thương chịu trách nhiệm. Về phía “đảng” mafia đỏ thì văn phòng trung ương mafia đỏ chịu trách nhiệm. Cho nên dù là bộ trưởng mà “bạch vệ” (tức không phải đảng viên mafia đỏ) như kiểu Phan Anh, hay phó thủ tướng như cụ Phan kế Toại v.v… cũng như bộ trưởng mà chưa là thành viên trung ương mafia đỏ, thì do bộ nội thương cung cấp, thì không đến nỗi đói lắm nhưng cũng chẳng lấy gì làm no. Còn loại “cán bộ” của Hồ mà nằm trong trung ương mafia đỏ thì cái chế độ chính trị lúc đó Hồ gọi là “Việt Nam dân chủ cộng hòa” nhưng văn phòng trung ương mafia đỏ cung cấp cho thành viên trung ương mafia đỏ theo “cộng sản chủ nghĩa”, tức là “làm theo năng lực nhưng lại được hưởng theo nhu cầu”. Chỉ vì cái “miếng đỉnh chung” đó mà thằng nào, con nào cũng cố gắng làm “người học trò giỏi của Hồ” để được hưởng theo nhu cầu. Vì thế người Hà-nội, thuở Hồ chưa ngỏm, mới đùa câu của Hồ tiểu di cho đệ tử theo kiểu “sấm” rằng:
“Tiên thiên hạ chi ưu
Hậu thiên hạ chi lạc”
Chính là Hồ dặn khéo:
“Tiên thiên hạ chi ưu tiên
Hậu thiên hạ chi lạc hậu”
Cho nên Hồ chết mới xây lăng, ướp xác v.v… và toàn bộ những thằng kế nghiệp Hồ đều ăn ở, hưởng thụ ra sao kể cả con cháu của chúng, chắc Lữ Phương không thể nào giả bị bịnh tâm thần mà chối rằng: không biết!!!
ở trong nước hiện nay, có ngòi bút “chống đối” nhắc đến việc Hồ khi chết, gia sản chỉ có “vài bộ quần áo và sổ tiết kiệm chỉ có hơn 3 ngàn”!(?) Đúng là người ta cố tình giả ngây thơ như bà phó Đoan của Vũ Trọng Phụng trong “Số Đỏ” khi bị Xuân tóc đỏ bị hiếp!!!
Những chứng minh trên đã quá đủ, khỏi cần phân tích cái “mẹo vặt” này của Hồ nhằm vừa lòng cái loại như bà phó Đoan và cậu Phước trong “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
Chỉ xin hỏi ngòi bút “chống đối” cho Hồ rằng:
- Từ ngày Hồ ngỏm, có ai dám vào ở cái “phủ chủ tịch” của Hồ và căn nhà gỗ, như ở các nước khác không?
- Từ ngày Hồ chết đã chi tiêu bao nhiêu thứ cho Hồ, thành tiên là bao nhiêu?
- Hơn ba ngàn trong sổ tiết kiệm của Hồ có đủ mua một đôi giày da cho một tên lính gác lăng không thôi?
Nếu không có cộng đồng người Việt ở hải ngoại tăng hiệu quả cho thì kiểu lý luận “cảm tính, lè phè” đó chắc chẳng ai biết đến. Trách nào lực lượng chủ lực là nông dân đâu có “nghe theo”!!!
Ngay Hoài Thanh, một bồi bút cung đình mafia đỏ, lương chính thiếu có “hai đồng” thì đạt tiêu chuẩn được cấp thẻ đặc biệt mua hàng ở cửa hàng Tôn Đản. Hoài Thanh bèn giả vờ đánh rơi nhật ký, trong đó ghi nỗi lòng lúc nào cũng muốn được “báo đáp công ơn bác và đảng đã cải tạo thành con người có lý tưởng”(?). Cuốn nhật ký của Hoài Thanh được trao cho công an và đến tay Tố Hữu. Hoài Thanh được Tố Hữu báo cho biết sẽ nâng lương (viện phó viện văn học) cho đạt tiêu chuẩn được mua hàng ở Tôn Đản. Hoài Thanh mừng quá, vội tổ chức cuộc bình thơ Tố Hữu. Chẳng biết “ma ám” hay “thiên bất dung gian” mà trong lúc cao hứng, Hoài Thanh lại lỡ mồm: “Anh (tức Tố Hữu) vốn sinh ra từ một nơi “sông không sâu, núi không cao” nên thơ anh hiền hòa. Thế là có kẻ ném đá giấu tay, viết thư nặc danh gửi cho Tố Hữu, kể nguyên văn buổi bình thơ, chỉ có chút nhận xét riêng. Đại ý: “Đồng chí Hoài Thanh tuy khen thơ của đồng chí “tức Tố Hữu” hết lời nhưng cái câu “sông không sâu, núi không cao” hình như bỏ lửng như vậy để mọi người nên cảnh giác đồng chí”, vì nếu nói đầy đủ thì sẽ là:
“Sơn bất cao,
Thủy bất thâm,
Nam đa trá!
Nữ đa dâm!”
Đòn “ném đá” thật hữu hiệu. Mấy ngày sau có quyết định nâng lương cho một số cán bộ ở Viện văn học. Vũ đức Phúc, cũng là viện phó, được nâng cho đủ tiêu chuẩn vào mua hàng ở Tôn Đản. Còn Hoài Thanh thì “chơớc quơớc”!
Thuở đó dân gian có câu:
“Tôn Đản là chợ vua quan
Vân Hồ là chợ trung gian, nịnh thần
Bắc Qua là chợ nhân dân
Hàng Bè là chợ công nhân anh hùng.”
Trong tay họ Hồ, đến lãng mạn như Xuân Diệu cũng trở thành “thực dụng tàn bạo”. Mỗi lần Xuân Diệu đi cơ sở bình thơ theo “quỹ văn hóa quần chúng” của cơ sở, đều đặt yêu cầu với ban tổ chức rất cụ thể:
- Ngày ăn mấy bữa. Thức ăn mỗi bữa ra sao.
- Không lấy tiền thù lao. Chỉ xin giúp đỡ cái này, cái nọ tính ra gấp chục lần tiêu chuẩn thù lao.
(Chuyện về Hoài Thanh, Xuân Diệu – Lữ Phương có thể điện ra cho nhà thơ trào phúng Yên Thao, ở Hà-nội, để biết hư thực. Còn dân gian nói về các chợ, có thể hỏi phu nhân tướng Trần Độ, vì xưa kia bà ấy là Cửa hàng trưởng cửa hàng Vân Hồ (Hà-nội).)
Còn nhà trí thức Huỳnh văn Tiểng, từ khi theo Hồ thì bỏ luôn đặc tính hào phóng của “dân Nam-kỳ”, để ăn cơm với vợ, ăn bữa nào trả tiền bữa ấy rất chi là sòng phẳng. Chuyện này do nhà thơ Trinh Đường và nhà triết học Trường Lưu ở chung nhà với vợ chồng Huỳnh văn Tiểng kể lại, chí ít cũng vài trăm người biết. Lữ Phương cũng có thể kiểm chứng.
Riêng vợ chồng Phạm văn Bạch, một đại phú của miền Nam, nên hồi 1945, Hoàng quốc Việt theo lệnh Hồ vào Sài-gòn để “giảm” uy thế của nhóm Trần văn Giàu và Dương bạch Mai, đã “tiến cử” Phạm văn Bạch vào ghế chủ tịch Nam-bộ. Sau 1954, Phạm văn Bạch ra Hà-nội ngụ tại vi-la ở ngõ Trần Hưng Đạo, đối diện cổng sở công an Hà-nội. Hai vợ chồng Phạm văn Bạch nuôi một bà già để hầu hạ. Gốc đại phú ở Nam-bộ; lại giữ ghế Chánh án Tòa án tối cao ngụy quyền Hồ chí Minh; lại đi theo con đường “giải phóng nô lệ” của Hồ, ấy thế mà mỗi lần bà già người làm lỡ tay làm vỡ cái chén ăn cơm là phải để cho vợ Phạm văn Bạch nhéo thâm tím khắp người. Nhiều lần bà già này chạy sang sở công an trình báo nhưng “công an bạn dân” khuyên bà nên nhẫn nhịn, coi đây là phục vụ “tổ cuốc”, dù sao cũng không đau khổ hay bị chết như ra chiến trường!!! Một đại phú, lại có học và gốc Nam-bộ mà vào bàn tay Hồ nhào nặn cũng thành biển lận trội hơn nhân vật trong kịch của Molière hay tiểu thuyết của Balzac!
Những tầng lớp trên và có học trong xã hội của Hồ kiến tạo là như vậy, thì tầng lớp dưới, đã ít học lại lúc nào cũng đói đến mức sang thời nhà văn Nguyễn huy Thiệp nổi danh rồi mà cái xã hội đó vẫn làm một người như Nguyễn huy Thiệp đói (trả lời phỏng vấn của báo Libération) cho nên phép lạ xuất hiện.
Những năm gần đây, nhiều thước phim, quay lại cảnh chiến tranh ở Việt Nam, được chiếu trên màn ảnh truyền hình. Một cảnh vừa đau lòng vừa hài hước là cảnh ngụy quân cộng sản Hà-nội đặt gót xâm lược vào Sài-gòn, ngày 30-4-1975. Bên cạnh những tên lính mặt non choẹt, gầy gò; những người dân bồng bế con cái khóc than; xác người xác xe đầy đường thì Lê đức Thọ, Văn tiến Dũng, Võ nguyên Giáp mặt mũi béo tốt, ngoác miệng ôm nhau cười, lộ rõ những chiếc răng trắng hếu và cái cổ họng đỏ lòm! Chúng cười trên nước mắt, trên xác chết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Chúng cười vì dưới tài nhào nặn của Hồ, những thanh niên nam nữ miền Bắc Việt Nam, bị đói thường trực, đã thành con thú lao vào máu thịt như điên như rồ!
Chúng cười vì chúng nghĩ rằng chúng là kẻ thắng!
Nhưng, phép lạ đã xuất hiện.
Bao năm bị nhồi nhét những luận điệu tuyên truyền theo kiểu “tô hồng, bôi đen” hiện thực của ngụy quyền Hồ chí Minh, đến mức những đệ tử chóp bu của Hồ như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Lê đức Thọ, Văn tiến Dũng, Tố Hữu cũng tin ở những lời nói láo do chính chúng đồng lõa với Hồ bịa đặt ra.
Bọn chúng cùng với lũ ngụy quân cộng sản và tụi ở bưng nhào về thành thị, không đứa nào dám nói với đứa nào, nhưng chúng cùng có chung một tâm lý của những hồn ma bị giam ở ngục tối âm-ty, bỗng một phút ngả vào thiên đường.
Lũ ngụy cộng sản đầu tiên vào được dinh Độc-lập đã biểu diễn động tác của các “anh bộ đội cụ Hồ” bằng chui vào xe tăng bê các thúng gạo dự trữ ra đổ đi, tranh nhau thúng mủng để vào dinh Độc-lập xúc từng thúng “quẹt gas” và “transistor” có khắc các chữ “Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thân tặng”. Khi chia “quả thực” đã xong, bọn chúng thản nhiên tắm và vo gạo ở bồn nước trước dinh để nấu cơm. Củi thì “tạm” hạ một vài cửa sổ xuống, chẻ ra để đun. Lữ Phương thử “khách quan” nhận xét xem những hành động của “anh bộ đội cụ Hồ” như vậy là “anh hùng giải phóng” hay là của một bầy lính man rợ, lạc hậu trong đội quân xâm lược? Sau này, Bùi Tín cũng như Nguyễn trần Thiết, viết bài tranh công xem ai là kẻ nhận sự đầu hàng của Big Minh, nhưng chẳng ai dám trung thực viết lại những cảnh đó!!!
Sau khi cơm no bụng và kiểm tra lại số “quẹt gas” và “transistor” có đủ không hay bị đồng đội, đồng chí “thuổng” mất, bọn ngụy quân cộng sản chia nhau lục soát hết dinh Độc-lập, không phải để “tìm địch” mà để tìm xem những gì có thể cướp được. Thôi thì từ dây dẫn điện, bóng đèn điện, màn che cửa, bọc nệm ghế v.v… đều bị cắt ra chia nhau. Vì thế, chỉ một ngày sau, tức 1-5-1975, các đầu nậu mafia đỏ từ Hà-nội bay vào tổ chức mít-tinh, dây điện bị ngụy quân cộng sản lấy hết nên Lê đức Thọ phải một tay chỉ cho Tôn đức Thắng “đánh vần” diễn văn, một tay cầm quạt nhè nhẹ quạt cho Tôn đức Thắng đỡ rôm sẩy! Còn Trường Chinh, lóa mắt trước sự giàu đẹp của miền Nam, vội vàng tuyên bố: “Miền Nam phải tiến ngay lên chủ nghĩa xã hội.” Đó là tiếng lóng của tụi mafia đỏ Hà-nội mà nghĩa đen là: “Phải cướp hết tài sản của nhân dân miền Nam; phải bỏ tù không xét xử mọi thành phần không thích hợp với chế độ mafia đỏ; phải đuổi dân thành phố, thị xã đi lưu đày ở nơi hoang hóa; phải tăng cường các nhà tù để bóc lột lao động; và cái ý nghĩa quan trọng nữa là: “Dẹp ngay các đoàn tuồng, chèo chính trị”, trong đó có cái chính phủ phường chèo mà Lữ Phương từng vinh dự được đóng vai phụ (tức thứ trưởng)!
Còn Lê Duẩn, thận trọng hơn Trường Chinh, vội vã đi thăm các nhà công thương nổi tiếng của miền Nam để ve vuốt, vì sợ họ dzọt mất. Cho nên Duẩn mới chụp ảnh chung với ông Nguyễn thành Nam, chủ hãng National, và tuyên bố “duy trì 5 thành phần kinh tế”. Một số nhà công thương miền Nam, không hiểu ngôn ngữ của mafia đỏ Hà-nội nên bị lừa trắng mắt. Vì, Duẩn nói là duy trì 5 thành phần kinh tế để chờ sát thủ thân tín của Hồ là Đỗ Mười vào, sẽ làm một quả “thiến nhanh”, “thiến mạnh”, “thiến trọn vẹn” những ai có tới một chỉ vàng. Thế là đổi tiền, thế là chiến dịch X1 và X2. Thế là tổ chức cho quân, dân, cán, chính của miền Nam đóng tiền học 10 ngày. Và sau 10 ngày không phải đóng tiền vì không học nữa mà là đi tù. Quả lừa đó là thành tích của Cao đăng Chiếm được Lê Duẩn khen và chuẩn y. Còn Trần quốc Hoàn (bộ trưởng công an), phải chờ sau vụ “vàng và hạt xoàn” trong nhà gián điệp ba Tàu cộng mới đẻ ra cái trò “kim loại màu vàng và đá quý” để cướp không vàng thật và hạt xoàn của nhân dân miền Nam!
Mọi sinh hoạt ở miền Bắc chỉ còn thoi thóp, vì không chỉ dân miền Nam tập kết ra Bắc, mà “thủ trưởng” lớn nhỏ của các cơ quan, cán bộ, công nhân viên và dân thường đua nhau vào Nam để tìm cơ hội đổi đời. Nhất là sau vụ Hà-nội ồn lên về việc nhà mấy đại tá ngụy quân cộng sản, ở khu tập thể Đống-đa, bị “an ninh quân đội” khám xét mà có nhà có hàng chục cái xe đạp, 4 ti-vi, hàng trăm đồng hồ, hàng thùng xi-líp ny-lông của nữ giới màu sắc chói chang, hàng chục ca-sét v.v…
Tiếp theo là các chợ trời đều tràn ngập hàng hóa từ miền Nam theo chân lũ quân xâm lược về thăm quê nhà. Ga-len và ngay cái đài bán dẫn Orionto của Hung; Xiang-mao của Trung cộng, từng là “hạnh phúc” và “niềm tự hào” của “dân, quân, cán, chính” của miền Bắc nay đều trở thành lạc hậu, chỉ thiếu điều bị vứt ra đống rác. Giờ là Sony, National, Aiwa, Hitachi v.v… Còn đồng hồ, tha hồ mà chọn, đủ cả “hai cửa sổ”, “ba cửa sổ” chẳng ai thèm ngó đến đồng hồ Poljot của Nga-xô mà mới trước đó vài tuần, riêng tiền mua cái phiếu thôi cũng trị giá bằng lương của “cán sự bậc 4”! (Tức 75 đồng tiền Hà-nội của năm 1975).
Các sứ quán Nga-xô, Trung cộng, Mông cổ, Bắc hàn, Algéria cũng đua nhau mang hàng va-ly tiền giấy của ngụy quyền Hà-nội vào Sài-gòn sắm các hàng điện tử đem về nước! Đặc biệt sứ quán Trung cộng, cả lũ lên cơn “Tô Định”, chỉ muốn vơ vét hết, nên bịa chuyện điện về Bắc-kinh xin cho một tàu thủy mang tên Hồng-kỳ vào Đà-nẳng vận chuyển giúp, nhưng kỳ thực là cướp các đồ điện tử, trong đó có dàn máy tính ở Đà-nẳng mang về Tàu lục địa.
Xin hỏi nhà lý luận Lữ Phương cũng như tướng Trần Độ (tự hào thành tích “giải phóng” miền Nam Việt Nam) rằng bản thân tụi dân, quân, cán, chính của ngụy quyền Hà-nội, cả lớn cả nhỏ đều vào Nam giết người cướp của lại còn rủ rê, cho phép đồng minh Nga-xô, Trung cộng, Bắc hàn cùng vào cướp bóc như vậy thì phải gọi là “giải phóng” hay “xâm lược”. Xin đừng loanh quanh mà hãy cố dũng cảm trung thực lấy một lần để trả lời rõ ràng là xâm lược hay giải phóng?(!)
Nhân sự trong ngành thương nghiệp của ngụy quyền Hà-nội khôn khéo kết hợp “cái chung” và “cái riêng” rất chi là Hồ chí Minh. Nghĩa là, chúng mang nắm giấy vụn của Hà-nội, được gọi là tiền, để mang vào Nam vơ vét không thiếu một thứ gì, từ cái xi-líp nữ cho đến các loại xe Falcon; Peugeot 404, 504; Mercedes; Toyota v.v… và xe gắn máy Honda, Suzuki v.v…; đồ điện tử; áo quần, mùng mền cho đến cả mì ăn liền, để bán ở cửa hàng cung cấp đặc biệt cho trung ương (cạnh nhà hàng Phú Gia, phố Hàng Trống, Hà-nội) với giá bằng một phần năm giá mua vào, nghĩa là bù lỗ!!! Ngay nhạc sỹ Đỗ Nhuận, với tư cách tổng thư ký hội nhạc (mafia đỏ) cũng lấy tiền quỹ của hội, vào Sài-gòn mua 5 cái đàn dương cầm nhãn Yamaha mang về Hà-nội, đem biếu con gái Lê Duẩn một cái; con gái Trường Chinh một cái; bản thân “mượn không thời hạn” một cái, còn nhạc sỹ cả hội dùng chung hai cái!!!
Các ngành, các bộ từ Hà-nội đua nhau vào giành giật nhà cửa, xe hơi, đồ đạc để làm cơ sở phía Nam và chuyển ra Bắc. Ngụy quyền Hà-nội lại còn bày trò cấp giấy phép vào Nam. Việc buôn bán giấy phép thật là nhộn nhịp ở câu lạc bộ Thống Nhất, ở cửa sau của ủy ban nhân dân thành phố Hà-nội; ở các văn phòng khu công an; ở văn phòng ủy ban thống nhất (đường Cao Bá Quát); ở văn phòng bộ giao thông vận tải và ở ga Hà-nội. Giá một giấy phép lên tới 300 đồng tiền Hà-nội lúc đó, nghĩa là hơn lương tháng của “chủ tịch nước”!!! Còn vé tàu liên vận và xe hơi “Bắc-Nam” thì chỉ có chợ đen với giá gấp 5 đến 10 lần giá chính thức. Rất nhiều cán bộ cơ quan, sỹ quan và lính ngụy cộng sản cũng như công an ngụy bỏ việc tìm đường vào Nam. Đây là điều chưa từng bao giờ xảy ra dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh ở miền Bắc Việt Nam cho đến ngày 30-4-1975! Nghĩa là người ta không sợ sợi dây cột bao tử của chế độ nữa.
Nếu tập đoàn Lê Duẩn phấn khởi về cái gọi là “mùa xuân đại thắng” bao nhiêu thì người dân thường, kể cả cán bộ, công nhân (giai cấp tiên phong) lại tỏ ra thất vọng cứ như chính họ bị thất bại. Điển hình là ở công trường Đập sông Đáy ở Hà-tây.
Tại công trường Đập sông Đáy lúc nào cũng có hàng vạn người lao động. Đó là công nhân xây dựng chuyên nghiệp của các công ty Thủy lợi; lao động là nông dân bị đi sưu; lao động là học sinh, sinh viên, xã viên hợp tác xã tiểu thủ công và cán bộ, công nhân viên bị đi theo “nghĩa vụ lao động” (3 tháng/năm).
Tin Big Minh đầu hàng và “chiến dịch Hồ chí Minh” (tức xâm lăng miền Nam) thắng lợi hoàn toàn được đài phát thanh truyền tới hệ thống loa của công trường. Cả rừng người trên công trường, im như thóc, nghe đài. Sau bản tin chiến thắng là bài hát của Phạm Tuyên “như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” ông ổng sủa lên. Rừng người vẫn im lặng, và như một mệnh lệnh từ một đấng vô hình, tất cả chẳng ai bảo ai, tự động bỏ việc đi về lán, lủi thủi như người mất hồn.
Vài tiếng đồng hồ sau, ban chỉ huy công trường phải gọi loa tập hợp lao động toàn công trường để mít-tinh chào mừng “chiến thắng”. Mọi người đến chỗ tụ họp cứ như đi đưa ma, chỉ có tiếng muỗi đêm bay vo vo. Đại diện ban chỉ huy công trường đọc lại “tin chiến thắng”, rồi đọc quyết tâm thư của toàn công trường gửi lên “trung ương đảng và chính phủ”. Như mọi lần là cả công trường vỗ tay như sấm rồi hát hò hoan hỉ. Nhưng lần này, chẳng một ai vỗ tay, kể cả thành viên “đoàn chủ tịch” cuộc mít-tinh. Quản ca của công trường bắt nhịp hát bài “giải phóng miền Nam”, cũng chỉ có mình hắn hát. Tất cả tự động giải tán về lán.
“Sài-gòn thất thủ” như tiếng sét, khiến mọi người bàng hoàng quên hẳn vai kịch hằng ngày để sống đúng với con người thật.
Kẻ viết những dòng này có mặt ở công trường Đập sông Đáy đúng hôm đó, theo lời mời của giám đốc công ty Thủy lợi số 3. Dự mít-tinh xong vội ra về cùng giám đốc công ty và phóng viên báo Nhân dân là Vũ Hạnh. Khi đi qua lán, nghe nam nữ công nhân đang chua chát chửi:
- Đ… mẹ tụi miền Nam sướng quá hóa quẩn. Hàng triệu quân mà đánh đấm như vậy. Làm tướng và tổng thống gì mà hèn thế, không dám bắn một phát vào đầu tự tử cho con cháu sau này được hãnh diện mà đầu hàng một cách hèn hạ như vậy!
- Mình cứ tưởng miền Nam sẽ ra giải phóng cho kiếp trâu chó của chúng mình, nào ngờ, đù mẹ nó, thế là hết hy vọng! Để cho bọn chúng được nếm mùi “xã hội chủ nghĩa” rồi mới hết phản chiến với du ca. Đ… mẹ cái thằng Trịnh công Sơn!
- Bọn mấy cái mặt trận dân tộc với liên minh rồi sẽ hết cả tộc với liên. Thân phận bọn Trịnh đình Thảo chưa chắc đã được như Nghiêm xuân Yêm, Đỗ xuân Sảng.
- Ông mà gặp mấy thằng nhạc sỹ làm bài hát phản chiến thì ông nhét cà vào mồm nó.
- Đ… mẹ nó lại làm bài hát ca ngợi “đảng” và “bác” xin đầu quân “ông Lành” (tức Tố Hữu) thì có khi nó cho mày bú cà nó đấy!
(Có thể còn được nghe giai cấp công nhân “thổ lộ” nhiều bí mật nữa. Nhưng, giám đốc công ty Thủy lợi số 3 “sợ” quá nên cứ thúc ra xe về Hà-nội.)
Nghe những “nỗi lòng” nêu trên của “giai cấp chính thống công nhân của miền Bắc XHCN” từ cái thuở 1975 đó mới càng thấm thía trước cảnh lũ khóc mướn cho Trịnh công Sơn ở hải ngoại. Đúng là “ăn cơm “tự do” thờ gia nô cộng sản”.
Sau này, tập đoàn cộng sản Việt gian đã làm một sự sai lầm không thể cứu vãn. Đó là chúng đưa các quân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa ra các trại tù ngoài Bắc. Thế là ngay cả những người dân miền Bắc, quá nghèo khổ, không dám và không thể vào thăm miền Nam được, đột nhiên được biết miền Nam qua những con người bằng xương bằng thịt bị tù đày đó và thân nhân của họ từ miền Nam ra thăm nuôi. So sánh với hình ảnh của con người miền Bắc bị hơn 20 năm trong tay tập đoàn sát nhân Hồ chí Minh, dù mù cũng thấy đâu là người đâu là thú. Và, công trình tẩy não, xuyên tạc của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh bị sụp đổ như lầu đài cát. Tất cả các vị quân, dân, chính của Việt Nam Cộng Hòa bị đưa ra nằm tù ngoài Bắc đều là nhân chứng về chuyện này. Khi ra Bắc thì bị ném đá. Khi trở về Nam thì bị ném bằng thuốc lá, bánh chưng! Lữ Phương và những “đồng chí” của Lữ Phương có thể kiểm chứng dễ dàng. Đó là sự thức tỉnh để những năm 1978 trở đi, nhiều người miền Bắc đã đoạn tuyệt với cái bánh vẽ vĩ đại của tên phù thủy Hồ chí Minh, tình nguyện đến xứ sở của đế quốc Mỹ và đồng bọn “xin được bị bóc lột”, vì quá sợ cảnh làm chủ nhân của thiên đường XHCN, dù biết rằng ba người ra đi chắc chắn một người sẽ làm mồi cho cá biển Đông!!! Nghĩa là, ngay dân miền Bắc XHCN, thì sau 30-4-1975, chợt tỉnh cơn mộng du trên đường lầy do Hồ Việt gian lựa chọn, và họ thà chết còn hơn tiếp tục đi con đường lầy của họ Hồ, dù có người đã u mê trên con đường đó một phần tư thế kỷ!
Những người miền Bắc XHCN được dịp vào phần đất của Việt Nam Cộng Hòa, ngay cả những người nhiều đời ở cái đất Hà-nội phồn hoa của thuở trước 1954, đều ngỡ ngàng cứ như “chim chích lạc rừng”. Tại Sài-gòn, hàng hóa chất cao như núi suốt từ phố Lê Lợi qua Trần Hưng Đạo vào tận Chợ-lớn, chưa kể các nơi khác. Người bán “lễ phép” đến mức nhiều người Bắc “phát hoảng” vì đã bao năm ở ngoài Bắc, chỉ có cảnh người mua phải nịnh và lễ phép với người bán.
Sách báo của Sài-gòn bán ra cũng nhiều. Đâu đâu cũng có, nhất là ở “passage” của cao ốc Eden. Có thể mua cả các sách Mác-xít thoải mái, đủ loại. Và, tác giả công khai thích Mác, không chỉ là ngoại quốc mà ngay chính nhà trí thức nổi tiếng là giáo sư Nguyễn văn Trung, từng dạy ở trường Võ-bị Đà-lạt!!! Cả thơ của Paul Eluard, cả A. Gide bên cạch I-li-a E-ren-bua, Gô-gôn. Và Verlain bên cạnh Pút-xkin v.v… Nghĩa là ở xã hội Việt Nam Cộng Hòa tha hồ độc giả đỏ, xanh, trắng và cả mọi loại Serie noire đều được hết. Chỉ sợ không có thì giờ đọc, không đủ tiền mua.
Bài 17
Hồ Chí Minh - Con yêu râu xanh
Ăn uống của Việt Nam Cộng Hòa cũng khác hẳn. Bên Bắc cầu Hiền-lương thì hàng quán xa thưa thớt. Nếu có vào cũng chỉ trà xanh, vài quả chuối còm và khá hơn thì vài hột vịt luộc. Qua bờ Nam Bến-hải đã như trời với vực. Quà ăn, nước uống phong phú, sạch đẹp mời chào tận miệng. Gần một phần tư thế kỷ dưới sự thống trị của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, người dân miền Bắc XHCN muốn ăn phải đi tìm như chó tìm xương, lại còn phải vẫy đuôi sợ bị đá vỡ mỏ. Nay vào đến đất của Việt Nam Cộng Hòa, được mời chào cứ như “thị vệ dâng cơm cho vua”. Họ chợt tỉnh cơn u mê gần phần tư thế kỷ để mở đầu cho việc đi tìm lại chính mình.
Phép lạ của Sài-gòn Việt Nam Cộng Hòa biến đổi những người miền Bắc XHCN thành:
1) Những người có chút lý tưởng thì bừng tỉnh lo cho số phận của dân tộc Việt Nam rồi sẽ ra sao trên mép vực XHCN. Đó là những người như Nguyễn Hộ, Bùi minh Quốc, Dương thu Hương, Nguyễn xuân Tụ (tức Hà sỹ Phu) v.v… tuy còn ngộ độc của quá khứ ở các mức độ khác nhau!
2) Những lũ cơ hội đi vô thực dụng một cách tàn bạo. Chúng nhào vào Nam hôi của, ngay chính với cả bà con, họ hàng, thân tộc. Lừa đảo, cướp đoạt trắng trợn.
3) Những tên lớn bé của bậc thang quan lại đỏ lộ nguyên hình yêu ma đội lốt người. Vài thí dụ cụ thể về đàn áp:
- Quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa bị lừa đi tù, bị ghép tội “phản động”;
- Người có của bị ghép tội tư sản, cũng tù đày, tịch thu tài sản; cưỡng bức đi lưu đày vùng hoang hóa;
- Trẻ em mới học cấp 1 đã bị “cải tạo lao động”, phải đi làm vệ sinh đường phố, làm cả ở những nơi nguy hiểm. Nhiều em chết vì mìn, vì lựu đạn rơi rớt;
- Lệnh ngăn sông, cấm chợ để trả thù “nhân dân miền Nam” đã không vùng lên khi cộng sản xâm lăng, khiến chết vì đói, chết vì mất hy vọng, vì uất ức biết là bao nhiêu;
- Nhà tù mọc như nấm, đến mức trường học, bệnh viện, khách sạn v.v… cũng bị dùng làm nhà tù. Thí dụ như khách sạn Đại-lợi ở chợ Ông Tạ (Sài-gòn)
- Trong cái không khí đàn áp, trả thù của đạo quân xâm lược mà cũng chỉ có quân xâm lược mới làm như vậy, thì các đầu nậu chóp bu tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh sinh hoạt ra sao?
- Văn phòng trung ương mafia đỏ lẹ nhất, đã cử người đi khắp miền Nam, đặc biệt là Sài-gòn và Đà-lạt, để chiếm các vi-la to đẹp nhất, dành cho trung ương.
- Văn phòng thủ tướng ngụy quyền Hà-nội cũng cho người nhào dzô để kiếm nhà, kiếm xe cho cái gọi là “nhà khách chính phủ”.
- Cho đến cả “cuốc hội” ngụy quyền và cái gọi là “mặt trận tổ cuốc” cũng vào xí phần. Khu vi-la ở đường Hiền Vương (sau đổi là Võ thị Sáu); một số vi-la lớn ở Nguyễn Minh Chiếu và cả tòa nhà của dược sỹ Nguyễn cao Thăng bị biến thành tài sản của “mặt trận tổ cuốc”.
- Các bộ, các ngành cũng đua theo, nhiều khi chiếm rồi bỏ đấy như dãy nhà ở Duy Tân – Võ văn Tần, do tổng cục lâm nghiệp chiếm chỉ có hai, ba gia đình ở để giữ phần. Các phòng gạch men đẹp như vậy bị dùng làm chỗ nuôi heo và gà!
- Mấy tên ở bưng về và tụi nắm quyền ở Sài-gòn như Trần nam Trung, Võ văn Kiệt chiếm trọn vẹn cả đường Tú Xương! (Thật tội nghiệp cho ông Tú).
- Lép vế như hai đảng Dân chủ và Xã hội cũng cướp được căn vi-la đồ sộ ở Duy Tân (sau đổi là Phạm ngọc Thạch), gần nhà “đồng chí” thẩm phán tối cao pháp viện của miền Nam là Trần thúc Linh.
- Vợ và con Lê Duẩn “được” làm ở báo “Sài-gòn giải phóng” để có quyền chiếm dụng nhà cửa, dư thừa đến mức đóng cửa bỏ đó như tòa nhà đồ sộ ở cuối đường Võ văn Tần.
- Anh em nhà Lê đức Thọ và con cháu thì khỏi nói. Mai chí Thọ 4 lần đổi nhà, mỗi lần đi sang nhà mới thì mang hết đồ đạc theo, chỉ trả lại xác nhà. Cuối cùng cướp luôn hai vi-la: an cư tại vi-la ở đường Phạm ngọc Thảo, còn vi-la ở đường Duy Tân sau này cho hãng Shell thuê. Thậm chí lũ gia nô của Lê đức Thọ cũng trở thành sáng giá. Thí dụ: Văn Lượng, phóng viên ảnh của Việt Nam thông tấn xã, nhờ theo Lê đức Thọ qua chụp ảnh ở hội nghị Paris về Việt Nam, được đặt lên ghế giám đốc công ty nhiếp ảnh của Sài-gòn. Nguyễn văn Bẩy, lái xe cho Lê đức Thọ ở Paris, trở thành phó giám đốc sở ngoại vụ của Sài-gòn. Và, tất nhiên có chức thì cũng có quyền cướp tài sản của nhân dân miền Nam.
- Ngay Trường Chinh, người “đồng chí” của tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, đã khiến Nguyễn thanh Giang “bật lò xo” khi thấy Trần Quỳnh động đến Trường Chinh, cũng cho phép bản thân và con cháu nội ngoại, xa gần quyền ăn cướp. Đến mức, một tên “người dưng nước lã” có công tìm được mộ một người bà con của Trường Chinh bị quân lực Việt Nam Cộng Hòa trừng trị về tôi xâm lược, cũng được Trường Chinh đích thân ra lệnh cho tụi đô hộ Sài-gòn cấp cho hắn một căn nhà ở ngay ngã tư Lê Lợi – Pasteur, mà chỉ cần cho mướn cái quầy hàng không thôi đã cho hắn cuộc sống vật chất trên mức phong lưu.
- Bọn bồi bút như Bảo định Giang, Nguyễn quang Sáng, Đinh Phong, Xuân Hồng v.v… một bước lên vi-la, xe hơi. Trần minh Tước (tức Xích Điểu), nguyên chủ tịch hội nhà báo của ngụy quyền Hà-nội chiếm cả căn lầu lẫn cửa hàng của căn phố ở đường Tự Do (sau đổi là Đồng Khởi), trước khi kiếm được cô vợ trẻ bằng chưa đến 1/3 tuổi của hắn thì tạm thời cặp bồ với Kiều mộng Thu.
- Diệp minh Châu chiếm căn vi-la số 222 đường Pasteur với đầy đủ đồ đạc, xe hơi (nghe đâu đó là tư gia của ông Nguyễn Đệ, đổng lý văn phòng của quốc trưởng Bảo Đại).
- Ngay những nhân vật “nhếch nhác” ở Hà-nội trước 4-1975 như luật sư Nguyễn thành Vĩnh cũng lên hương. Cũng chiếm được nhà cửa xe cộ và béo trắng, bệ vệ hẳn ra. Còn Trần văn Giàu cũng chiếm được một cái vi-la đồ sộ, cuối năm 2001 mới đây bán được mấy ngàn lạng vàng, đã bỏ ra 1000 lạng làm giải thưởng lịch sử hằng năm cho các nhà “xuyên tạc lịch sử” trong thế hệ trẻ. Không con cái, Trần văn Giàu muốn đi với lịch sử mãi mãi. Hắn già nên nghĩ quẩn mà thôi, chắc chắn chỉ riêng tín đồ Hòa Hảo cũng sẽ mãi mãi nhớ tên Trần văn Giàu, Dương bạch Mai là những đứa đã hãm hại Đức Huỳnh Giáo Chủ và hàng chục ngàn tín đồ và chức sắc Hòa Hảo khác!
Cuộc chiến thắng của tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh trong việc xâm lăng miền Nam Việt Nam, là một mất mát không gì bù đắp được cho không chỉ đối với nhân dân miền Nam mà là cho cả đất nước Việt Nam. Lịch sử bị kéo lùi lại còn tệ hơn thời thực dân Pháp cai trị. Các giá trị vật chất, tinh thần bị phá hoại nghiêm trọng, không biết phải bao thế hệ nữa mới hàn gắn lại được. Cái mất mát lớn nhất là sự kỳ thị Bắc – Nam; là truyền thống gia đình bị đổ vỡ vì cảnh “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”.
Bọn đệ tử của Hồ, những Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm văn Đồng thi hành tiếp lịch trình của Hồ đã vạch, bất chấp thực tế xã hội. Lê Duẩn cầm đầu một phái đoàn gồm gần trọn vẹn chính trị bộ của đại hội mafia đỏ lần 4, sang mẫu quốc đỏ Nga-xô ký hiệp ước “hữu nghị và hợp tác”, nội dung na ná như hiệp ước Patenôtre. Nghĩa là gần như công khai Việt Nam trở thành một bộ phận lãnh thổ Nga-xô. Chính Tố Hữu, trong hội nghị tuyên huấn đã phấn khởi tuyên bố: “Cơ duyên đã khiến Việt Nam trở thành cái đuôi của phe XHCN”!
Và, 1979 cái đuôi đó bắt đầu quậy sang Tây-Nam để thành chiến tranh bành trướng sang Căm-bốt và phía Bắc để đoạn tuyệt với “anh hai Trung cộng”, giữ phẩm tiết “tôi chung thờ một chúa”, đó là Nga-xô!
Có nhiều nguyên nhân thúc đẩy bọn đệ tử của Hồ phát động chiến tranh, nhưng cũng có một nguyên nhân quan trọng là bọn chúng vốn được hình thành để chém giết, phá hoại; có thói quen cai trị trong thời chiến và thói quen ăn cướp để tồn tại. Nói một cách khác, cái tổ chức Việt gian cộng sản của Hồ là tụi phi sản xuất tuyệt đối, là ký sinh trùng của xã hội. Cho nên chúng phát động chiến tranh để ăn cướp thêm của dân cả hai phía: Việt Nam và Căm-bốt; để duy trì sự độc tài; để đổ lỗi cho chiến tranh gây ra mọi khó khăn cho dân, y hệt Hồ một mặt xâm lăng miền Nam, một mặt đổ lỗi cho “Mỹ-Ngụy” là nguyên nhân gây ra mọi đói kém của miền Bắc!!! Và, quan trọng nhất là chúng thực hiện mục tiêu là nguyên nhân ra đời cái tổ chức Việt gian của chúng. Đó là “đảng cộng sản Đông-dương”, công cụ bành trướng của thực dân đỏ.
Ngay sau đại hội mafia đỏ lần 4 (1976), nhìn vào thành phần trung ương mafia đỏ, người ta đã thấy đây là nhân sự để làm chiến tranh.
Nhưng cái nguyên nhân chủ yếu gây chiến tranh sang Căm-bốt của tập đoàn cộng sản Việt gian là chúng muốn tiêu diệt sự vùng lên của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Sau khi chiếm được miền Nam Việt Nam, tập đoàn Việt gian cộng sản, qua cuộc chiến Xuân-lộc, qua việc nhân dân miền Nam không nổi dậy như chúng mong muốn, mà chỉ có tụi nằm vùng của chúng cùng lũ lưu manh trộm cắp mà nhân dân miền Nam gọi là “cách mạng 30”. Như ở Sài-gòn, lũ gọi là đoàn luật sư do Đỗ hữu Cảnh cầm đầu; tụi sinh viên phản chiến do Dương văn Đầy, Kim Hạnh lèo lái; Trịnh công Sơn lên đài hát bài “nối vòng tay lớn”, có sự phụ họa của tụi Miên đức Thắng; rồi bọn công an nằm vùng Huỳnh bá Thành, Vũ ngọc Nhạ; bọn cơ hội như Nguyễn văn Bảy ở hội công thương; Kiều mộng Thu, Ngô công Đức, Lý quý Chung, thẩm phán Trần thúc Linh, mụ Ngô bá Thành, giáo sư Lê văn Thới, Vũ Hạnh, phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, “chuẩn tướng” Nguyễn hữu Hạnh v.v… là vẫy đuôi mừng quân xâm lược. Còn nhân dân miền Nam lại tiếp tục sinh hoạt bình thường. Mỹ thôi “can thiệp”, quốc tế “giả mù giả điếc”. Cho nên tập đoàn Việt gian cộng sản hết do dự, nhất là sau khi đã lừa được quân, dân, chính miền Nam vào các trại tù. Đấy là bước thứ nhất. Như vậy là chúng tạm thời vô hiệu hóa được lực lượng nguy hiểm trước mắt là quân đội, chính quyền và các đảng phái chính trị.
Bước thứ hai là tập đoàn Việt gian cộng sản vô hiệu hóa sức của nhân dân ở đô thị miền Nam bằng các chiến dịch đổi tiền; chiến dịch tiêu diệt tư hữu mang tên X1 và X2, và đuổi đi lưu đày ở rừng núi hoang hóa. Chúng hiểu rằng hoàn toàn khác với nông thôn, người dân đô thị hầu hết không ủng hộ chúng và thời gian họ sẽ là lực lượng chống đối mãnh liệt bộc lộ dưới nhiều phương diện, cả kinh tế, cả văn hóa, cả sinh hoạt xã hội.
Vì vậy chúng quyết định “thừa thắng xông lên”. Cho nên mới có chuyện điều động lực lượng ra biên giới với Lào và Căm-bốt, bằng cách lập nông trường quân đội, đẻ ra cái gọi là “tổng cục kinh tế của bộ quốc phòng”, và di dân từ Bắc vào, di nguyên cả làng. Bởi trong hai chục năm chiến tranh, các làng xã ở Bắc Việt Nam đều là “dân vi binh”. Có ban chỉ huy cấp tiểu đoàn ở xã. Và dân quân thì thông thạo sử dụng đủ loại vũ khí, đến mức dân quân vùng biển có pháo tầm xa để bắn ra tàu biển. Cho nên cần nhớ rằng: Di dân Bắc vào và thành lập các nông trường quân đội chính là điều động binh lực chốt ở biên giới định làm cuộc chiến bành trướng bất ngờ.
Nếu bước thứ nhất, tập đoàn Việt gian cộng sản tạm thành công việc vô hiệu hóa quân, dân, chính, đảng ở miền Nam, thì bước thứ hai là vô hiệu hóa nhân dân đô thị đã không như ý muốn của chúng. Nhiều tổ chức phục quốc với nhiều danh xưng khác nhau mọc lên khắp nơi. Tuy rằng chưa có tổ chức nào gây được tiếng vang lớn, nhưng đó là chỉ dấu hoàn toàn khác với sự an phận của nhân dân miền Bắc sau 1954.
Vừa nằm trong âm mưu “giữ con tin”, vừa có nhân lực cho chiến tranh bành trướng thực dân đỏ, tập đoàn Việt gian cộng sản tiến hành bước ba, nghĩa là chúng bắt thanh niên nam nữ của miền Nam vào “thanh niên xung phong” và đi “lính ngụy cộng sản”. Như thế là chúng sẽ tiêu diệt được lực lượng đối kháng tương lai, dùng địch giết thế hệ trẻ của miền Nam và dùng máu xương thế hệ trẻ của miền Nam mở rộng địa bàn của chủ nghĩa thực dân đỏ. Đồng thời cột gia đình những thanh niên bất hạnh đó vào cái lồng vô hình “cha mẹ, vợ con bộ đội cách mạng”, không dám giúp đỡ các tổ chức “phục quốc” của miền Nam.
Từ một lò ma giáo mà ra, nên đường đi nước bước của tập đoàn Việt gian cộng sản làm sao qua mặt được “anh hai Trung cộng”, vì thế cả Uông đông Hưng, thường vụ chính trị bộ Trung cộng và Đặng dĩnh Siêu, vợ của Chu ân Lai, thì thọt qua Căm-bốt với Pôn-pốt, Khiêu-xăm-phon và Iêng-xa-ri. Và, kẻ bị bất ngờ lại là tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng, chết chóc, tang tóc đau khổ vẫn giáng lên đầu nhân dân, cả miền Nam, cả miền Bắc. Một phong trào phản kháng kiểu mới bùng nổ không gì cản nổi: vượt biên bằng mọi giá của nhân dân cả hai miền Nam và Bắc.
Khỏi cần nhắc lại cái giá của cuộc vượt biên đi tìm tự do.
Khỏi cần nhắc lại những khó khăn của những người tỵ nạn cộng sản Việt Nam phải vượt qua để hội nhập với nơi cư trú mới, kiến lập cuộc sống ổn định. Và, những gương thành công mọi mặt từ kinh tế đến khoa học kỹ thuật của cộng đồng người Việt hải ngoại đã được thống kê và nhắc đến nhiều.
Cái đáng nói là vẫn mở đầu bằng quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến kiểu mới chống tập đoàn Việt gian cộng sản. Đó là phó đề đốc Hoàng cơ Minh, là đại tá Võ đại Tôn, là anh hùng Lý Tống v.v… Từ đó các tổ chức yêu nước tự phát hình thành, phối hợp với nhau đã gây nên tiếng vang cả quốc tế, cả trong nước.
Sự thành công trong cuộc chiến của cộng đồng người Việt hải ngoại chống tập đoàn Việt gian cộng sản, khiến chúng không dám hỗn láo gọi cộng đồng người Việt hải ngoại là “đĩ điếm, phản động, tỵ nạn kinh tế v.v…”. Chúng phải thừa nhận cộng đồng người Việt hải ngoại là Việt kiều yêu nước!!! Và, chúng thi hành những âm mưu thâm độc là cài người nằm vùng trong các tổ chức của cộng đồng người Việt; lèo lái, mua chuộc những tụi cơ hội; đe dọa những người trót làm “ăng ten” cho chúng khi còn ở trong nước, khi còn ở các “trại cải tạo” để làm việc cho chúng, từ kinh tế lái sang văn học nghệ thuật rồi cái đích cuối cùng là lập trường chính trị. Thủ đoạn của chúng là phá sự đoàn kết của cộng đồng, phân hóa thành nhiều phe nhóm; phá hoại trong từng nhóm; đẻ ra nhiều quan điểm để mọi người mất thì giờ tranh luận, quần chúng thầm lặng chán nản. Khai thác tính ngại khó ngại khổ, nôn nóng và vụ lợi của người ta (nói chung) để đưa ra những lập luận “nghe thì có vẻ ôn hòa, hợp lý” nhưng thực ra rất nguy hiểm như “ma túy bọc đường”. Bên cạnh đó thì chúng tung tin bịa đặt để dần dần làm mọi người lúc nào cũng “hoài nghi”, không biết tin vào đâu.
Hoàn toàn khác với miền Bắc trước 4-1975. Loại trừ sự phản kháng với kiểu “lửa rơm” của “nhân văn – giai phẩm”, mau chóng bị dẹp, sự phản kháng của nhân dân miền Bắc Việt Nam cao nhất là “lãn công, lãng phí, buôn lậu, phá hoại sản xuất” mà cũng chỉ là tự phát, không có tổ chức. Ngoài ra, trong lĩnh vực văn học cũng chỉ tìm cách “luồn lách” vài bài chửi chế độ một cách bóng bẩy, xa xôi đến mức quần chúng cũng chẳng để ý tới. Và nực cười là chính lũ gác cửa tòa nhà văn nghệ của chúng vì la lối nên mới làm cho người đọc hiểu ra cái mặt thật của ông Lý Toét!!!
Về danh nghĩa, có hai đảng Dân chủ và Xã hội, nhưng lãnh đạo chủ yếu lại là “chi bộ cộng sản” nằm vùng với mấy con rối như Nghiêm xuân Yêm, Trần đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Đỗ xuân Sảng v.v… tất cả đều không còn gan và mật và bộ óc thì chín phần mười được thay bằng bã đậu phụ!!!
Cho nên hai đảng Dân chủ và Xã hội được dùng làm đồ trang trí cũng như làm “bông hoa mướp vàng” để câu mấy chú ếch làm chính trị ở trong Nam như Lâm văn Tết, Dương quỳnh Hoa, Trương như Tảng, Trần bửu Kiếm v.v… như nhóm gọi là “thành phần thứ 3” ở Vạn Hạnh v.v… hay cha con Ngô bá Thành, tụi “phản chiến” như anh em Hoàng phủ ngọc Tường, Trịnh công Sơn, Lê văn Hảo, Miên đức Thắng v.v…
Tập đoàn Việt gian cộng sản, dưới sự chỉ đạo của tên gián điệp dày dạn Hồ chí Minh, trong thực tế đã vô sản hóa toàn dân miền Bắc, nô lệ hóa từ trí thức tới tiểu thương buôn thúng bán mẹt, mua bán ve chai, cho tới cả các đảng phái không cộng sản, nhân sỹ và các hội đoàn tôn giáo. Cho nên Hồ không cần ghi vào hiến pháp 1959 của hắn “sự độc quyền lãnh đạo”. Và, cũng không thể ghi như thế được, vì đó là cái “lỗ hổng” để Hồ lừa những chú dế mèn ở miền Nam, có bệnh đứng núi này trông núi nọ, làm cái chuyện “dế mèn phiêu lưu chính trị”!!!
Còn ở miền Nam Việt Nam sau 1975, lũ đệ tử Việt gian cộng sản của Hồ phải đương đầu với tinh thần làm chủ, ý chí bất khuất của nhân dân miền Nam, sau khi đã được sờ cái “thiên đường XHCN ở miền Bắc” không chỉ qua đường lối cai trị mà bằng “những con người mới XHCN” từ miền Bắc vào, trông na ná như người đói của Thái-bình năm Ất Dậu (1945) bỏ làng đi tìm miếng ăn!
Các tổ chức chống cộng ồ ạt nổi lên hệt như các phong trào nổi lên của người Việt Nam thời Bắc thuộc và thời thực dân Pháp. Tổ chức nào cũng có tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị và dùng biện pháp vũ trang phục quốc.
Những hình ảnh lịch sử của Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu được tái lập qua các anh hùng của lực lượng vũ trang của Việt Nam Cộng Hòa như liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long v.v…
Những hình ảnh hiên ngang, tự hào là quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, ngay trong hàng rào kẽm gai, ngay trước họng súng của cai ngục công sản như tấm gương của trung úy Võ Văn Tưng (Hòa Hảo, cùng ở trại giam ngày đầu tiên với trung tướng Huỳnh văn Cao) không phải là cá biệt. Trong nhà tù của Việt gian cộng sản có rất nhiều tù nhân mới ở lứa tuổi 16, đã tự nguyện vùng lên lật ách cộng sản. Tuy ngoài mặt bọn công an, báo chí của tập đoàn Việt gian cộng sản “chế giễu” những tổ chức đó, nào là “ngoan cố”, nào là “vài mống”, nào là “rổm”, đủ thứ ngôn ngữ mà bọn chúng chế biến được. Nhưng, thực ra chúng hiểu rằng những đốm lửa quật cường đó tuy “nhỏ”, “lẻ loi”, nhưng lại đều khắp, và nếu có “thời cơ”, sẽ có thể thành bão lửa. Đấy là lý do các đệ tử của Hồ phải xóa sổ hai đảng Dân chủ và Xã hội, ghi vào hiến pháp của chúng sự độc quyền đảng trị của tập đoàn Việt gian cộng sản.
Nghĩa là chúng có thể nới lỏng về kinh tế (chấp nhận thành phần kinh tế tư nhân); nới lỏng về văn hóa (văn thơ mùi mẫn, bớt sắt máu). Nhưng về chính trị và tư tưởng thì chúng vẫn ngoan cố bám giữ và độc quyền nắm lực lượng vũ trang (lính, công an và hải quan).
Nói tóm lại, những dẫn chứng ở trên đã chứng minh rằng, trước 4-1975, ở miền Bắc Việt Nam:
- Không có cá nhân hay tổ chức nào tranh quyền lãnh đạo với tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh (ngoại trừ đấu đá nội bộ giữa “xét lại” và “giáo điều” thì cả hai vẫn là cộng sản);
- Cần thiết giấu mặt “độc tài đảng trị” để lừa miền Nam Việt Nam (và cả quốc tế nữa).
Cho nên Hồ không cần ghi vào hiến pháp của hắn điều khoản độc tài đảng trị.
Còn sau tháng 4-1975, ở miền Nam Việt Nam:
* Các tổ chức Phục quốc nổi lên như nấm, cùng có mục tiêu chung là “lật đổ tập đoàn Việt gian cộng sản, xóa bỏ chế độ cộng sản và hệ lụy của nó”;
* Đặc biệt sự hình thành của cộng đồng người Việt ở hải ngoại là thách đố thường trực đối với tập đoàn Việt gian cộng sản. Tuy chưa thống nhất được lực lượng do âm mưu của tập đoàn Việt gian cộng sản cài người nằm vùng đánh phá, gây chia rẽ trong cộng đồng, làm phân hóa lực lượng, giành quyền kiểm soát cộng đồng. Nhưng sức mạnh của cộng đồng cả kinh tế, cả văn hóa, cả chính trị đã lay động sự lãnh đạo của tập đoàn Việt gian cộng sản khiến chúng bị động và cũng bị phân hóa lực lượng, ngày càng lộ nhược điểm chủ yếu;
* Cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa cả tinh thần và cả vật chất cho nhân dân quốc nội vùng lên.
Nhờ sự đấu tranh bền bỉ của cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà “toàn bộ” các cá nhân, các nhóm bất đồng chính kiến ở quốc nội mới thoát ra ẩn số, được quốc tế biết đến, được các giải thưởng quốc tế, cho nên tập đoàn Việt gian cộng sản không dám “khát máu”, uyển chuyển trong đàn áp. Sự ra đời nghị định 31/CP do Võ văn Kiệt ký, sau Phan văn Khải bổ túc lại. Vì thế, ít ra những người bất đồng chính kiến cũng an tâm chịu tù, quản chế nhưng không sợ bị thủ tiêu hoặc tử hình.
Đó là lý do chủ yếu tập đoàn Việt gian cộng sản phải dựa vào hiến pháp của chúng “điều 4” và “bảo vệ nó như con ngươi của mắt”.
Việc “đưa điều 4 vào hiến pháp” không hề trái với tư tưởng chủ đạo của Hồ như một số cây bút “đấu tranh” cố tình hư cấu chạy tội cho Hồ. Vì Hồ luôn căn dặn đệ tử:
* Không được chia quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang;
* Phải xây dựng thành công CNXH;
* Yêu nước là yêu CNXH.
Thử hỏi:
Tại sao tập đoàn Việt gian cộng sản phải “độc quyền” lực lượng vũ trang?
Bởi “độc quyền” lực lượng vũ trang thì mới thực hiện được trọn vẹn sự độc tài đảng trị. Cho nên dù có như thời của những năm 50, sau Hồ khi nắm trọn được lính và công an, thì trên thực tế Chính phủ Liên hiệp đa đảng chẳng còn quyền gì. Đó là một cuộc đảo chính âm thầm.
Và, cũng vì “độc quyền” nắm giữ lính và công an nên Hồ mới cho bắt “nhóm xét lại” dễ như thò tay vào túi vậy.
Nhưng có một ý nghĩa quan trọng hơn cả là phải dùng lính và công an để bắt nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, có nghĩa bản thân Hồ (và bây giờ là lũ đệ tử) cũng hiểu cái chủ nghĩa xã hội chẳng có ích lợi gì cho nhân dân Việt Nam mà chỉ đem lại sự hưởng thụ trọn vẹn cả tinh thần cả vật chất cho Hồ và tập đoàn Việt gian của hắn mà thôi.
Một câu hỏi khác:
Tại sao phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội?
Trước hết phải nói đến nội dung của chủ nghĩa xã hội, mà như bọn Việt gian cộng sản truyên truyền rằng:
1- Có năng xuất lao động cao hơn hẳn năng xuất lao động của chủ nghĩa tư bản;
2- Không có cảnh người bóc lột người;
3- Làm theo năng lưc, hưởng theo việc làm;
4- Tài nguyên đất nước, tài sản xã hội đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân.
Cái nội dung trên, thực tế như son phấn tô điểm trên mặt gái điếm hay kiểu “nước vỏ lựu, máu mào gà” mà cụ Nguyễn Du viết trong truyện Kiều mà thôi. Vì chưa thấy đạt được một điểm nào ngay chính tại Nga-xô cũ.
Còn cái nội dung đích thực chính là:
* Bần cùng hóa toàn dân. Toàn bộ tài nguyên đất nước, tài sản xã hội, toàn thể nhân dân đều thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Việt gian cộng sản. Có như vậy chúng mới “tự do” thực thi chiến lược bành trướng của mẫu quốc đỏ. Và, gần đây nhất (1999-2001) chúng đã dâng đất, dâng biển cho “anh hai bá quyền Trung cộng” của chúng, coi nhân dân chỉ là con số “0”!!!
Bốn cái nội dung mị dân nói trên bị lộ vở, vì ngay Nga-xô và khối Đông-âu tìm mãi để cuối cùng trở lại lối mòn của kinh tế thị trường! Cho nên bây giờ chúng cố moi ra cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đó là tiếng lóng của mafia đỏ cộng sản, mà nghĩa đen của nó là:
* Kinh tế thị trường là nới lỏng cái thòng lọng kinh tế, cho họ hàng tay chân dựa vào sự nới lỏng đó mà bung ra làm kinh tế, tự nuôi lấy thân mà phục vụ tập đoàn Việt gian cộng sản, tha hồ bóc lột dân;
* Định hướng XHCN là tất yếu tập đoàn Việt gian cộng sản phải là chủ nhân của lực lượng vũ trang, chủ nhân của tài nguyên đất nước và chủ nhân của đám “quan lại đỏ, cường hào đỏ” và chủ nhân của toàn dân.
Sự khác biệt với trước kia là xã hội có thêm giai cấp tư sản đỏ và địa chủ cường hào đỏ là chỗ dựa của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhân dân lao động bao gồm công nhân, nông dân, tiểu chủ trở thành đối tượng bị bóc lột. Bản thân những tên trong trung ương mafia đỏ và tay chân thân cận thành “cá mập đỏ” và bọn chúng cấu kết thành “tập đoàn tài phiệt đỏ”, chia sẻ quyền bóc lột nhân dân Việt Nam, tài nguyên của Việt Nam với các tập đoàn tài phiệt quốc tế.
Câu hỏi chót là: Tại sao yêu nước lại phải yêu CNXH?
Bộ trước khi tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh mang bệnh Aids XHCN về Việt Nam thì ở Việt Nam không có khái niệm yêu nước và không có ai yêu nước sao? Cho nên đây cũng là lối nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mà nghĩa đen là: Ai không yêu tập đoàn Việt gian cộng sản là bị khép tội không yêu nước. Và tất nhiên không yêu nước thì phải giết đi hoặc cho vào tù khổ sai. Tại sao lại có ý nghĩa như vậy? Bởi vì cái gọi là CNXH thì chưa ai biết nó “đầu dê mình ngựa” ra sao, ngay tại cả Nga-xô trước đây (nói CNXH với bốn cái nội dung trên). Cho nên chỉ còn lại cái gọi là “đảng cộng sản” là những kẻ tự hào cho là biết hình thù cái CNXH đó như thế nào và sẽ lãnh đạo mọi người đi tìm CNXH. Chứ các đảng khác như ở Việt Nam thì có VNQDĐ, Đại Việt, Duy Dân, Phục Quốc v.v…, thế giới có các đảng Cộng hòa ở Mỹ, Bảo thủ ở Anh, Dân chủ Tự do ở Nhật v.v…, chẳng đảng nào biết và tìm cái gọi là CNXH.
Bởi thế, tập đoàn Việt gian cộng sản cố tình giáo dục thiếu nhi như chúng nêu lại “mục tiêu giáo dục đào tạo” nhân cái gọi là kỷ niệm 60 năm thành lập đoàn thiếu niên tiền phong, là:
“Một lòng một dạ trung thành với đảng (tức cộng sản)… phấn đấu trở thành cháu ngoan bác Hồ, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ chí Minh”!!! (Nhân dân điện tử, số 773, chủ nhật, 13-5-2001).
Cho nên “tư tưởng lưu manh của Hồ” trong câu: yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, muốn căn dặn đệ tử rằng: Ai chống đảng cộng sản là chống chủ nghĩa xã hội, ai chống chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là phản quốc nên cứ việc giết thẳng tay hoặc cho đi tù khổ sai chung thân.
Thử tính xem, từ ngày Hồ chí Minh và tập đoàn Việt gian cộng sản của hắn đảo chính Chính phủ Liên hiệp đa đảng, tiếm quyền thống trị, bọn chúng đã “giết” và “bỏ tù” bao nhiêu chục triệu nhân dân Việt Nam. Cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam do Hồ phát động cũng chính nhằm mục đích trừng phạt nhân dân miền Nam vì không yêu CNXH, tức không “yêu nước” nên bị Hồ gọi là “ngụy”, là “phản động”.
Vì thế, người Việt ở hải ngoại nên cảnh giác lối chơi chữ và nói tiếng lóng của tập đoàn Việt gian cộng sản. Bị dụ khị bởi cụm từ “kinh tế thị trường” nhào về Việt Nam làm ăn (dù động cơ “chụp giựt” hay “muốn xây dựng đất nước”), coi chừng cái “”định hướng XHCN” sẽ nuốt cả vốn lẫn lãi và có khi cả thân xác nữa đấy!!! (vì XHCN là vô sản hóa, là nô lệ hóa). Lúc há miệng kêu, chúng sẽ nói rằng chúng đã ghi rõ là “định hướng XHCN” đấy thôi; y như bài học hơn hai mươi năm trước đây của cái gọi là “duy trì năm thành phần kinh tế” và “đóng tiền đi học tập 10 ngày”.
Hiện nay, tập đoàn Việt gian cộng sản đã thống nhất cấu kết với nhau dâng đất dân biển cho Trung cộng. Đây là gót chân Archill của chúng. Mọi cây bút có trách nhiệm của quốc nội và hải ngoại cần tập trung vạch mặt Việt gian dâng đất, dâng biển cho Trung cộng của chúng, từ khi Hồ còn cầm quyền đến nay là Nông đức Mạnh, có sự nhất trí của tất cả các đời “tổng bí thư” của chúng là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và Nông đức Mạnh, cũng như tất cả những tên từng là thành viên chính trị bộ của chúng, từ thời Hồ đến nay.
Nếu nhân dân quốc nội, nhất là nông dân, được giải phóng khỏi cái “thần tượng” Hồ chí Minh thì họ sẽ thấu hiểu sâu sắc rằng muốn có tự do, cơm no, áo ấm cho bản thân và các thế hệ con cháu, thì chỉ có một con đường duy nhất: đó là nỗ lực thay đổi thể chế xã hội hiện nay ở Việt Nam, để cho nhân dân thực sự là chủ, thực sự tự do bầu người đại diện để quản lý đất nước và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
Hồ là chỗ dựa lý luận của tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền hiện nay. Bọn chúng đã và đang nhét một lô các luận điệu mị dân, các bánh vẽ vào cái gọi là “tuyển tập Hồ chí Minh”. Cái gì Hồ lỡ miệng nói láo thì chúng bỏ đi hoặc sửa lại cho phù hợp với hiện tại. Chúng còn cố tình bịa thêm vào cái gọi là “kho tàng” của “tư tưởng Hồ chí Minh” khiến những nhà nghiên cứu, quen như ở các nước thuộc thế giới tự do, dựa vào đống tài liệu giả đó thì làm sao hiểu được sự thật, và mất thì giờ như mấy nhà giả kim thuật thời trung cổ vậy.
Cho nên các ngòi bút ở hải ngoại cần tập trung đánh vào nền tảng lý luận của tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền là “tư tưởng Hồ chí Minh”, là “chủ nghĩa Hồ chí Minh” do mấy cây bút “chống đối” hư cấu.
Nhiều bộ óc cả nể đã đưa ra những lập luận mơ hồ, nước đôi. Họ không dám (mà cũng có thể là không nỡ) tách bạch cái đúng và cái sai của những ngòi bút “chống đối” hoặc “ly khai”.
Thí dụ: Ông Bùi Tín
Trong các sách của mình và các bài viết, có công vạch phần nào “mặt thật” của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh. Nhưng ông cũng để lộ ra nhiều “mặt giả”. Ngay bản thân ông ta, cũng chưa thấy cái sai (kiểu cộng sản) khi ông ta hăm hở viết cuốn “Mặt thật các tướng ngụy Sài-gòn”, với nhiều tình tiết của ngòi bút được đào tạo và nhuần nhuyễn “bôi đen, tô hồng”. Ông Bùi Tín có thể bôi bẩn trọn vẹn các tướng lãnh của QLVNCH mà chắc chắn hoặc ông chỉ nghe nói hay “hư cấu”. Còn với các tướng ngụy cộng sản, ông đã được chung sống với chúng thì chưa thấy ông vạch “mặt thật” hết bọn chúng ra, kể cả Võ nguyên Giáp.
Ông Trần Độ
Vẫn còn tự hào là môn đồ trung kiên của Hồ, vẫn chưa thấy cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam là một vết đen trong đời ông, từ một người yêu nước biết thành kẻ giết dân mà ông đầy tự hào.
Ông Nguyễn thanh Giang
Có nhiều mâu thuẫn trong viết và trả lời phỏng vấn khiến lúc ông đỏ, lúc xanh, không rõ ràng. Gần đây nhất, trong cuộc trả lời phỏng vấn của đài Little Saigon, ông nói “lãnh đạo cộng sản bị Trung cộng lừa”, trong vụ ký kết hiệp định biên giới Việt-Hoa. Nội dung đó là sự xuyên tạc trắng trợn, bây giờ cũng nguy hiểm và càng nguy hiểm hơn cho thế hệ Việt Nam tương lai. Vì căn cứ vào lời phát biểu của một “nhân vật chống đối nổi tiếng” cả trong và ngoài nước; một người có bằng cấp tiến sỹ, nghĩa là “dùng chữ chính xác”, “ăn nói có suy nghĩ” thì như vậy, tập đoàn Việt gian cộng sản vô tội, chúng bị lừa nên chúng chỉ là nạn nhân thôi.
Thời Hồ cầm quyền, tập đoàn Việt gian cộng sản đã dâng đất, dâng biển cho Trung cộng. Chứng cớ rành rành với chữ ký của Ung văn Khiêm (1956) và Phạm văn Đồng (1958). Còn hiện nay, từ 1997 cho đến khi đặt cọc mốc đầu tiên tháng 12-2001, trong 4 năm trời tin đi mối lại với đủ bộ mặt đặc sệt Việt gian là Nguyễn văn Linh, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Nguyễn mạnh Cầm, Trần đức Lương, Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An thì thọt sang Tàu, lén lút ký, lén lút thông qua, bất chấp mọi tiếng nói cảnh tỉnh của từ cụ Đỗ việt Sơn, đến luật sư Lê chí quang và .v.v…, cả trong và ngoài nước. Xin hỏi ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang rằng: Quá trình hành động của tập đoàn Việt gian cộng sản như vậy là chúng ngoan cố và cố tình dâng đất, dâng biển cho Trung cộng “hay là chúng bị lừa”. (Nghĩ rằng lòng trung thực sẽ thúc đẩy ông lên tiếng cải chính vì chót lỡ lời). Trò “ảo thuật” chỉ qua mắt một số nào đó vô tình, nhưng không thể qua mắt được số đông, trước sau cũng lộ vở. Chuyện đời là như vậy!
Tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền tiếp tục thần thánh hóa họ Hồ.
Một số ngòi bút “chống đối” ở quốc nội và hải ngoại tiếp tục đề cao họ Hồ qua huyền thoại và hư cấu ra cái gọi là “chủ nghĩa Hồ chí Minh”.
Hai bên rõ ràng cùng thờ một chủ. Hay nói cách khác là giống như xưa kia tờ Nouvel Observateur đã vẽ hý họa cuộc đấu đá của “xét lại” và “giáo điều”. Có nghĩa họ là anh em cùng cha khác mẹ.
Một bên là định hướng xã hội chủ nghĩa và độc quyền đảng trị.
Một bên “hứa” đa đảng (như Hồ thuở 1945-52) và xây dựng chủ nghĩa xã hội (kiểu mô hình Hồ chí Minh đã thể hiện qua “cải cách ruộng đất”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và v.v…). Hình thù vẫn là cái bánh vẽ của người chưa được cầm quyền, giống hệt khi Hồ còn chưa nắm được quyền lực trọn vẹn. Và với cái “chủ nghĩa Hồ chí Minh” chỉ đạo, họ sẽ hành sử như thế nào là điều có thể thấy được rồi.
Cộng đồng người Việt hải ngoại nên ôn lại bài học lịch sử đã qua. Nếu không sẽ là câu chuyện gậy ông đập lưng ông. Trong khi chúng ta ủng hộ, cổ võ, bảo vệ những cây bút đeo nhãn “chống đối” mà không phê phán những quan điểm sai trái của họ, thế là chính chúng ta đánh bóng họ từ A đến Z, làm cho họ thoát ra ẩn số. Có uy tín cả trong nước, cả quốc tế. Hầu hết họ được giải thưởng quốc tế hoặc được đề nghị xét tặng giải thưởng quốc tế là hoàn toàn do công sức của cộng đồng người Việt hải ngoại. Còn người Việt ở hải ngoại có biết bao người bị bỏ quên như Lý Tống, Hoàng cơ Minh, Võ đại Tôn, kể cả những người đã hy sinh như Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và bao ngòi bút đấu tranh không mệt mỏi như Nguyễn Văn Canh, luật sư Nguyễn Văn Thắng, Tưởng Năng Tiến, Đại Dương, Lê Hữu Mục, Võ Văn Aí, Phương Nam, Trần Bình Nam, Trần Viết Đại Hưng, Trương Gia Phụng, Lâm Lễ Trinh, Đinh Từ Thức, Trực Ngôn v.v…
Thử tưởng tượng, vì tội ác dâng đất dâng biển cho Trung cộng quá rõ ràng (chứ không phải bị lừa như tiến sỹ Nguyễn thanh Giang nhận định), nên tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền đành lùi một bước. Giả dụ là xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp của chúng (vì chúng vẫn còn độc quyền lực lượng vũ trang, công an) và cho bầu lại quốc hội có giám sát quốc tế. Chúng ta thử nghĩ xem, cũng giả dụ là ông Võ Đại Tôn và luật sư Nguyện Văn Thắng từ hải ngoại về mà cũng được ứng cử thì số phiếu của 4 người như ông Võ Đại Tôn, luật sư Nguyễn Văn Thắng với tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê, nhóm nào được phiếu nhiều hơn.
Chắc chắn tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ nhiều phiếu hơn. Và giả dụ là họ trúng cử vào quốc hội. Thử hỏi nếu tập đoàn Việt gian cộng sản đưa ra thông qua cái chính sách mà chúng “đi theo con đường của Hồ” thì các ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang và Trần Khuê sẽ chống hay ủng hộ?
Chúng ta vì là “nạn nhân của con đường Hồ lựa chọn” nên mới phải lưu vong ra nước ngoài. Có thể nào chúng ta quên bài học đó để tiếp tục cho những người nhân danh “chủ nghĩa Hồ chí Minh” xỏ mũi dắt đi như dắt trâu không?!!!
Tóm lại, tất cả những dẫn chứng được nêu trên nhằm phản bác không chỉ “huyền thoại Hồ chí Minh” do Lữ Phương viết mà còn vạch trần cái gọi là nội dung của “chủ nghĩa Hồ chí Minh” (nếu gọi đó là chủ nghĩa) chính là “chủ nghĩa đầu hàng bá quyền nước lớn, trước là Nga-xô và Trung cộng, nay là Trung cộng”.
Mới đây, tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền dâng đất, dâng biển cho Trung cộng là cái tất yếu phải như vậy, vì chúng đã được dẫn dắt bằng “tư tưởng Hồ chí Minh” mà các cây bút “chống đối” ở trong nước đánh bóng, nâng cấp thành “chủ nghĩa Hồ chí Minh”.
Xưa Hồ chí Minh dâng đất, dâng biển cho Trung cộng để đổi lấy sự ủng hộ của Trung cộng trong việc xé bỏ hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, thực hiện nô lệ hóa nhân dân miền Bắc Việt Nam; mượn đường của Trung cộng để chở vũ khí từ Nga-xô về cũng như mua vũ khí của Trung cộng, để xâm lược miền Nam Việt Nam, tiến tới nô lệ hóa cả hai miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đặt ách thực dân đỏ.
Nay lũ đệ tử của Hồ nắm quyền lãnh đạo tổ chức Việt gian cộng sản của Hồ để lại, tiếp thu bài học bán nước của Hồ, đã trắng trợn dâng đất dâng biển cho Trung cộng nhằm:
1- Dựa vào Trung cộng để đối phó với sự nổi dậy của nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước.
2- Để chuyển tài sản bọn chúng đã bóc lột, ăn cướp được, trong những năm cầm quyền, mà trước đây chúng gửi tại ngân hàng phương Tây, nay gửi vào ngân hàng của Trung cộng. Như thế vừa bí mật vừa dùng ngân hàng của Trung cộng để rửa tiền ăn cướp, tham nhũng, vừa đề phòng khi bị xét xử, nếu tiền gửi ở phương Tây sẽ bị trả lại cho chính phủ phi cộng sản của Việt Nam tương lai; còn gửi tại Trung cộng được Trung cộng cam đoan giữ an toàn. Và, nếu ngày nào đó không xa, bị nhân dân lật đổ, chúng cùng gia đình và tay chân có thể an toàn “cư trú chính trị”, sống cuộc đời vương giả ở Trung cộng.
Ngày nay, giới chức nào trong tập đoàn Việt gian cộng sản cũng vơ vét được cả trăm triệu US đô-la. Những tên có trên một tỷ US đô-la đã bị lộ (chưa kể của chìm hoặc tiền gửi chưa bị lộ) đều liên quan trực tiếp đến việc dâng đất đâng biển cho Trung cộng, như:
- Nguyễn tấn Dũng, phó thủ tướng thường trực: 1 tỷ 480 triệu đô-la
- Phạm văn Trà, bộ trưởng quốc phòng: 1 tỷ 360 triệu đô-la
- Phạm thế Duyệt, chủ tịch mặt trận “tổ cuốc”: 1 tỷ 173 triệu đô-la
- Lê khả Phiêu, nguyên tổng bí thư: 1 tỷ 170 triệu đô-la
- Nguyễn mạnh Cầm, phó thủ tướng: 1 tỷ 150 triệu đô-la
- Trương tấn Sang, trưởng ban kinh tế: 1 tỷ 124 triệu đô-la
- Phan văn Khải, thủ tướng: 1tỷ 200 triệu đô-la
(Theo tài liệu của cụ Hoàng cơ Thụy).
Loại bạc tỷ đô-la Mỹ như trên còn dài dài, vì phải thêm tên tụi Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, anh em Lê đức Thọ, Mai chí Thọ; gia đình Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn tiến Dũng và v.v… Mà con số tiền tỷ đô-la Mỹ đó cũng mới chỉ là phần nổi bị lộ; chưa kể phần chưa bị lộ; chưa kể các bất động sản, các cổ phần hùn hạp, vàng, hạt xoàn v.v… Ngay Nông đức Mạnh, Nguyễn văn An bị coi là chậm chân mà mỗi đứa cũng có ngót 150 triệu US đô-la, kể cả tên bộ trưởng Lê minh Hương hoặc nguyên thư ký của Đỗ Mười là Lê xuân Tùng.
Cần lưu ý rằng tất cả số tiền chúng có đều vơ vét trong khoảng chục năm hoặc hơn chục năm mà thôi. Thật là kỷ lục!!!
Chính vì đống đô-la Mỹ bộn xộn như vậy nên bọn chúng đồng tâm nhất trí để “bị lừa”, như chữ nghĩa của ông tiến sỹ Nguyễn thanh Giang, nhà “chống đối” nổi tiếng cả trong và ngoài nước Việt nam.
Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng: “Kẻ đã và đang bị lừa là nhân dân Việt Nam. Và cũng chính nhân dân Việt Nam sẽ vạch mặt tụi lừa đảo và cho chúng đi cải tạo cùng Hồ ở hỏa ngục!”
Một “huyền thoại về Hồ chí Minh” của Lữ Phương chứ vạn “huyền thoại về Hồ chí Minh” cũng chỉ đã, đang và mãi mãi sẽ là bọt bèo, làm sao cứu được sự chết đuối của tập đoàn Việt gian cộng sản!!!
Xin hãy chờ xem!
Xuân Nhâm Ngọ – 2002
Việt Thường
____________________
Chú thích:
- Sự tích: Con yêu râu xanh ở Việt Nam, do cơ sở Quật Khởi, ở Hoa kỳ, ấn loát và xuất bản, năm 2002.
- Quý độc giả có thể tìm mua ở nhà sách “Văn Bút”, Little Saigon, Hoa kỳ. Hoặc có thể liên lạc với Nguyệt san Người Dân, địa chỉ: P.O. BOX 2674 – Costa Mesa – California 92628 – USA.
Trân trọng cảm ơn quý độc giả đã dành thì giờ cho quyển sách này.
Thân kính,
Việt Thường
Nguồn:http://sutichconyeurauxanhovietnamhochiminh.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét